|
CHÚA NHẬT III QUANH
NĂM
BÀI ĐỌC I: Is 8:23-9:3
“Tại Galiêa các dân tộc và
dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại”
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Lúc
đầu, đất Giabulon và Nepthali rất hèn hạ, trong tương lai dần dần trở thành
đường biển, bên kia sông Giođan trở thành Galilêa các dân tộc. Dân chúng đi
trong tối tăm đă thấy một ánh sáng vĩ đại, và một ánh sáng đă chiếu soi trên dân
ở vùng bóng sự chết. Ngươi đă gia tăng dân số, đă ban một nguồn vui lớn; thiên
hạ hân hoan trước mặt ngươi, như hân hoan khi được mùa, nhảy mừng như khi phân
chia chiến lợi phẩm. V́ ách đă đè trên họ, đ̣n ngang nằm trên vai họ, và gậy của
kẻ lạm thu họ, ngươi đă bẻ găy tất cả như trong ngày Mađian. V́ tất cả những
chiếc giày trận, tất cả áo choàng vùi trong máu, đều bị ném vào đám cháy, làm
mồi cho lửa.
Lời của Chúa.
Đáp Ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Chúa là sự sáng và là Đấng
cứu độ tôi.
1.
Chúa là sự sáng, là
Đấng cứu độ; tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, tôi sợ ǵ ai?
2.
Có một điều tôi xin
Chúa, một điều tôi kiếm t́m, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi,
hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người.
3.
Tôi tin rằng tôi sẽ
được nh́n xem những ơn lành của Chúa trong cơi nhân sinh. Hăy chờ đợi Chúa, hăy
sống can trường, hăy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!
BÀI ĐỌC II: 1 Cor 1:10-13, 17
“Tất cả anh em hăy đồng
tâm hợp ư với nhau, và giữa anh em, đừng có chia rẽ”
Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.
Anh
em thân mến, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta tôi xin anh em tất cả hăy
đồng tâm hiệp ư với nhau, giữa anh em, đừng có chia rẽ; hăy đoàn kết chặt chẽ
trong cùng một thần trí và cùng một tâm t́nh. Anh em thân mến, tôi đă được các
người nhà Khloê cho hay rằng: giữa anh em, đang có những sự bất đồng. Tôi có ư
nói điều nầy: là mỗi người trong anh em nói: “Tôi, tôi thuộc về Phaolô; Tôi về
phe Apollô; c̣n tôi, tôi về phe Kêpha; và tôi thuộc về phe Chúa Kitô. Chúa Kitô
bị phân chia rồi sao? Có phải Phaolô đă chịu đóng đinh v́ anh em đâu? hay là
nhân danh Phaolô mà anh em chịu phép rửa?
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. ---
Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng nước trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền
trong dân. --- Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 4:12-17
“Người vào Capharnaum để
ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đă tiên báo”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêô.
Khi
ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành
Nagiarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và
Nepthali, để ứng nghiệm lời đă phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: Hỡi đất
Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của
ngoại bang. Dân ngồi trong tối tăm, đă thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đă xuất
hiện cho người ngồi trong bóng sự chết. Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng
và nói: “Hăy hối cải, v́ nước trời đă gần đến.”
Phúc Âm của Chúa.
___________________________________________________
CHÚA NHẬT III MÙA THƯỜNG NIÊN HẬU GIÁNG SINH NĂM A
Lời Loan Báo Tiên Khởi:
"Hăy Cải Thiện Đời Sống. Nước Trời Đă Đến"
Lời Loan Báo Tiên Khởi:
Mục Tiêu
Phụng Vụ Lời Chúa của Lễ
Thánh Gia cách đây bốn tuần, như được phân tích, đă nói lên ba khía cạnh về ư
nghĩa của lễ này: Chu kỳ Phụng Vụ Lời Chúa Năm A chú trọng đến vai tṛ bảo hộ
của gia trưởng Giuse, Năm B đến thân phận đau thương của Mẹ Maria gắn liền với
số phận khổ nạn của Chúa Giêsu Con Mẹ, và Năm C đến phận sự vâng lời của Chúa
Giêsu là con trong Thánh Gia. Phụng Vụ Lời Chúa của chu kỳ Năm A, B và C cho
Chúa Nhật Thứ III Mùa Thường Niên tuần này, nếu phân tích kỹ lưỡng về mối liên
hệ của cả ba năm, cũng cho chúng ta thấy các khía cạnh khác nhau nơi ư nghĩa của
Mầu Nhiệm Chúa Kitô: Phụng Vụ Lời Chúa Năm A nhấn mạnh đến khía cạnh về đối
tượng phổ quát của sứ vụ Chúa Kitô đó là Dân Ngoại, Năm B đến khía cạnh về
phương tiện để Chúa Kitô có thể vươn tới đối tượng này đó là việc tuyển mộ các
môn đồ, (phải chăng chính v́ lư do này mà trong bài Phúc Âm Năm A hôm nay, dù có
đoạn về việc tuyển mộ các môn đệ tiên khởi, Giáo Hội cũng không buộc đọc, v́
việc tuyển môn đệ này liên quan đến chủ đề của Năm B), và Năm C đến khía cạnh về
tác nhân để Chúa Kitô có thể hiện thực sứ vụ của ḿnh đó là Thánh Thần.
Thật vậy, Phụng Vụ Lời
Chúa của Chúa Nhật III Mùa Thường Niên hôm nay thực sự đă nhấn mạnh đến khía
cạnh đối tượng phổ quát của sứ vụ Chúa Giêsu. Đối tượng đó là ǵ, nếu không phải
là tất cả mọi dân nước. Bởi v́, Phúc Âm Thánh Mathêu đă mở màn sứ vụ của Chúa
Giêsu khi thuật lại điểm xuất phát của Người từ miền đất Dân Ngoại như thế này:
"Khi nghe thấy Gioan bị tống ngục, Chúa Giêsu liền rút về Galilêa. Người rời
Nazarét mà đến sống ở
Capernaum
ven biển, gần địa hạt Zebulun và Naphtali, để hoàn tất những ǵ đă được tiên tri
Isaia đă nói". Tiên tri Isaia đă nói như thế nào đều được Giáo Hội trích lại ở
bài đọc một, những lời cũng đă được Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay trưng dẫn: "Đất
Zebulun, đất Naphtali dọc theo biển bên kia sông Dược Đăng, phần đất Galiêa
thuộc dân ngoại, đó là thứ dân sống trong tăm tối đă được thấy ánh sáng huy
hoàng. Ánh sáng đă mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết".
"Ánh sáng huy hoàng. Ánh
sáng đă mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết" đây là ǵ, tuy
tiên tri Isaia không nói rơ, song theo chiều hướng của bài Phúc Âm Thánh Mathêu
hôm nay, th́ đó là chính Chúa Giêsu. Ngay câu mở đầu bài Phúc Âm theo Thánh
Mathêu cho chu kỳ phụng vụ Năm A (cũng như chu kỳ Năm B) hôm nay đă cho chúng ta
thấy rơ điều này, thấy rằng Chúa Giêsu thực sự là "ánh sáng" như được tiên tri
Isaia nói tới, ở chỗ, Thánh Mathêu viết: "Khi nghe thấy Gioan bị tống ngục, Chúa
Giêsu liền rút về Galilêa". Thật vậy, đèn chỉ được tắt đi hay bị lu mờ đi khi
ánh sáng bắt đầu lên thế nào, th́ Chúa Giêsu cũng chỉ bắt đầu công khai tỏ ḿnh
ra "khi nghe thấy Gioan bị tống ngục", tức khi Gioan Tẩy Giả (Jn 5:35) "là đèn
soi" một thời của dân Do Thái đang bị nhục dục con người (nơi Hêrôđê) dập tắt.
Cho dù có bị quyền lực loài người dập tắt đi nữa, tinh thần của Gioan Tẩy Giả đă
được phản ảnh nơi câu đầu của bài Đáp Ca trích Thánh Vịnh 27 hôm nay: "Chúa là
ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi c̣n sợ chi ai?" Và tia đầu tiên phát ra từ
"Ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đă mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm
sự chết" là ǵ, nếu không phải là những lời đầu tiên mở màn cho sứ vụ của Chúa
Giêsu, những lời làm nên tất cả sứ điệp Phúc Âm của Người, một sứ điệp Người đă
loan báo tại miền đất của Dân Ngoại này, tức là sứ điệp Người có ư muốn gửi cho
chung tất cả loài người, chứ không phải cho riêng dân Do Thái. Sứ điệp đó là: "Hăy
cải thiện đời sống! Nước Trời đă đến".
Lời Loan Báo Tiên Khởi:
Ư Nghĩa
Trong sứ điệp thực sự
làm nên tất cả Phúc Âm của Chúa Giêsu này, chúng ta thấy rơ ràng có hai vế hay
hai yếu tố: vế nhân sinh (cải thiện) và vế thần linh (Nước Trời), hay yếu tố đức
tin (cải thiện) và yếu tố mạc khải (Nước Trời). Nếu "mạc khải" là tỏ ta, là tỏ
cho thấy, th́ với tư cách là "Ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đă mọc lên trên những
ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết", Chúa Giêsu chính là Mạc Khải Thần Linh, là
"tất cả sự thật" (Jn 16:13) Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người biết về bản thân
Ngài cũng như về ư định cứu độ của Ngài, đến nỗi, như chính Người khẳng định:
"Ai thấy Thày là thấy Cha" (Jn 14:6).
Như thế, nếu Chúa Giêsu
"đến để làm chứng cho chân lư" (Jn 18:37) tức là Người đến để đồng thời vừa làm
chứng về chính ḿnh Người, vừa để "tỏ Cha ra" (Jn 1:18) qua chứng từ của Người
và bằng chứng từ của Người. Đó là lư do trong Phúc Âm của Thánh Gioan ở đoạn 6
câu 38, Người đă tuyên bố với dân Do Thái rằng: "Tôi từ trời xuống không phải để
làm theo ư riêng của ḿnh mà là ư của Đấng đă sai Tôi". Nếu "Nước Trời" là tất
cả Mạc Khải Thần Linh, tất cả những ǵ Thiên Chúa muốn tỏ ra và muốn hiện thực
nơi loài người, th́ Chúa Giêsu cũng chính là "Nước Trời". "Nước Trời đă đến" đây
tức là Đấng Thiên Sai đă đến. Phúc Âm theo Thánh Marcô thuộc chu kỳ phụng vụ Năm
B hôm nay cho chúng ta thấy rơ hơn về mối liên hệ bất khả phân ly đến độ đồng
hóa giữa Đấng Thiên Sai và Nước Trời đây, khi lập lại lời loan báo tiên khởi của
Chúa Giêsu dài hơn lời của Người trong Phúc Âm theo Thánh Mathêu. Lời loan báo
tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô là: "Thời điểm đă trọn. Nước
Thiên Chúa đă đến! Hăy cải thiện đời sống và tin vào phúc âm". Lời loan báo tiên
khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô này, nhất là phần đầu, phần liên
quan đến Mạc Khải Thần Linh, đă được phản ảnh qua lời xác tín của Vị Tông Đồ Dân
Ngoại trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái, đoạn 1 câu 2, về thời điểm tột đỉnh của
Mạc Khải Thần Linh cũng như về nội dung của tất cả Mạc Khải Thần Linh như sau: "Vào
thời sau hết này, Thiên Chúa đă nói với chúng ta qua Con của Ngài".
Trong Thông Điệp
Redemptoris Missio, ban hành ngày 7/12/1990, kỷ niệm 25 năm Sắc Lệnh của Công
Đồng Chung Vaticanô II về việc truyền giáo "ad gentes - cho muôn dân", ĐTC Gioan
Phaolô II, ở đoạn 15.2 và 18.2, đă xác định rơ ràng mối liên kết Nước Trời, hay
Nước Thiên Chúa với Mạc Khải Thần Linh cũng như với bản thân của chính Chúa
Giêsu như sau: "Nước Thiên Chúa là trọn vẹn dự án cứu độ của Thiên Chúa được
biểu lộ và hiện thực" (15.2); "Nước Thiên Chúa không phải là một quan niệm, một
tín lư hay một hoạch định muốn cắt nghĩa sao cũng được, mà trước hết là một con
người, với dung nhan và danh xưng Giêsu Nazarét, h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh".
Nếu lời loan báo tiên
khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô đi từ vế thần linh hay từ yếu tố
mạc khải là "thời điểm nên trọn và Nước Thiên Chúa" đến vế nhân sinh hay đến yếu
tố đức tin là "cải thiện và tin vào", th́ lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu
theo Phúc Âm Thánh Mathêu đă đi ngược lại với thứ tự này, tức đi từ vế loài
người hay từ yếu tố đức tin là "cải thiện" trước rồi mới đến vế thần linh hay
đến yếu tố mạc khải là "Nước Trời" sau. Tuy nhiên, chính cái ngược nhau về thứ
tự nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu nơi hai Phúc Âm ấy đă làm cho vế
nhân sinh hay yếu tố đức tin nơi lời loan báo tiên khởi này mặc một vai tṛ quan
trọng không ít. Tức là, theo thứ tự nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu
theo Phúc Âm Thánh Mathêu, th́ con người cần phải có đức tin đă họ mới có thể
nhận biết Đấng Thiên Sai, tức mới có thể tiếp nhận Nước Trời hay mới có thể vào
Nước Trời: Đức Tin được thể hiện qua việc "cải thiện đời sống" chính là đường
dẫn đến Mạc Khải Thần Linh, đến "Nước Trời". Cũng thế, theo thứ tự nơi lời loan
báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô, th́ dù Thiên Chúa đă đến
lúc mạc khải tất cả mọi sự cho con người biết nơi Con Một của Ngài và qua Con
Một Ngài, Đấng như Nước Thiên Chúa ở giữa loài người (x Lk 17:21), như "Thiên
Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1:23), con người cũng cần phải có đức tin, được thể
hiện qua việc "cải thiện đời sống và tin vào phúc âm" nữa mới được cứu độ. V́,
"tin vào phúc âm" đây là ǵ, nếu không phải là trực tiếp tin vào chính Chúa
Giêsu, vào Đấng Cha sai, và gián tiếp tin vào Thiên Chúa, vào Đấng sai Người,
Đấng Người đến để "tỏ ra" (Jn 1:18) cho loài người biết qua chứng từ của Người,
hay qua việc Người làm chứng về ḿnh, tức qua việc "Nước Cha trị đến" vậy.
Vấn đề thực hành
sống đạo:
Tại sao Kitô hữu giáo
đoàn Côrintô, trong Thư thứ nhất Thánh Phaolô gửi cho họ cho biết là, chia rẽ
nhau? "Phải chăng", như Thánh Phaolô đặt vấn đề với họ, "Chúa Kitô đă bị phân
mảnh?" Thật ra, nếu tự ḿnh Chúa Kitô chỉ là một, th́ dù là Phaolô hay Appôlô
hoặc Cêpha cũng chỉ rao giảng một Chúa Kitô duy nhất, một mạc khải thần linh duy
nhất, một phúc âm duy nhất. Sở dĩ xẩy ra t́nh trạng chia rẽ nhau nơi họ là v́
vấn đề đức tin nơi người thụ lănh, đúng hơn, là v́ con người lănh nhận đức tin
chưa hoàn toàn gắn bó với đức tin của ḿnh, hay chưa thấu triệt đức tin của ḿnh,
cứ tưởng hay cứ đ̣i Chúa Kitô phải như ḿnh nghĩ mới được. Như thế, nếu Kitô hữu
chúng ta thời nay chia rẽ nhau khi cùng nhau hoạt động tông đồ th́ không phải là
chúng ta đă phân mảnh Chúa Kitô rồi hay sao? Nghĩa là chúng ta vẫn c̣n bị
confused, bị lầm lẫn về Người. Đó là lư do chúng ta cần phải "cải thiện đời sống"
để có thể và mới có thể chẳng những chấp nhận "Nước Trời" trong tâm hồn ḿnh, mà
c̣n phát triển "Nước Trời" bằng chứng từ truyền giáo của ḿnh nữa!
(Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL)
HY SINH!
Trần Mỹ Duyệt
Thánh Mátthêu trong phần
tường thuật về những ngày đầu tiên của sứ vụ Tông Đồ của Chúa Giêsu đă viết:
“Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: “Hăy hối cải, v́ nước trời đă gần đến” (Mt
4:17). Để hiểu được ư nghĩa của đ̣i hỏi này, ta cần
nh́n vào căn bản của sự từ bỏ bằng tầm nh́n tu đức và Thánh Kinh.
Mặc dù ai cũng biết rằng
chỉ có Đức Kitô mới chính là “đường, là sự thật, và là sự sống”. Và rằng
chỉ có Ngài mới có “lời ban sự sống đời đời” (Gio 6:68). Nhưng v́ là con người,
tự nhiên khi phải nghe đến hai chữ hối cải, xám hối, từ bỏ, hy sinh th́ ai cũng
thấy ngán ngẩm và sợ hăi. Bản năng con người tự nhiên ưa cái dễ dăi, thoải mái,
và nhàn hạ, ít ai chấp nhận hy sinh và chịu khó. Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa là chúng ta không thể nào xám hối được và như vậy là không vào được nước
trời.
Như vừa sơ lược tŕnh
bày ở trên, nếu chỉ dựa vào tự nhiên, vào những nỗ lực và cố gắng riêng tư của
mỗi cá nhân, th́ con người không đủ sức để chống cự lại với những đ̣i hỏi và nhu
cầu theo bản năng. Điều này cũng có nghĩa là ta khó vươn tới được siêu linh v́
phải ègằng co giữa siêu linh và bản năng. Theo tâm lư, sự giằng co này chính là
yếu tố khởi động và làm nên những căng thẳng, dồn nén, đôi khi dẫn tới tâm bệnh.
Do đó, nếu chỉ dựa vào ư chí, vào khả năng tự nhiên, con người không thắng nổi
những đ̣i hỏi theo bản năng, chưa nói tới con người tự nhiên ấy c̣n bị thu hút
bởi những cám dỗ bao quanh cuộc sống, và những mời gọi của vật chất. Nhưng chính
v́ ta có Đức Kitô “là đường, là sự thật và là sự sống”. Ngài ở bên ta và luôn
đồng hành với ta, nên với sức mạnh vô biên của Ngài và với những nỗ lực của ư
chí, ta mới có thể từ bỏ, mới có thể hoán cải, và mới có thể xám hối.
Tại sao sự từ bỏ và xám
hối lại là một khó khăn, kinh hoàng cho con người trên hành tŕnh dương thế như
vậy? Đó chính là v́ khi đụng chạm đến hai chữ từ bỏ, xám hối, tức là chấp nhận
cái khiếm khuyết, bất toàn nơi ḿnh. Nhất là phải bỏ đi những suy tư và lối sống
mà nó đă trở thành và đi liền với cuộc sống và làm nên chính con người của ḿnh.
Thí dụ một người có tính nóng nẩy và say sưa chẳng hạn. Mới nghe người ấy nói về
thái độ nhu ḿ, khiêm tốn và mềm mỏng, hay những nguy hiểm và kết quả xấu của
rượu chè, cờ bạc ta rất cảm động và rất khâm phục thiện chí của những
người này. Nhưng nói là một chuyện, c̣n chừa được tính nóng nẩy và thói nghiện
ngập hay không lại là một chuyện khác. Kinh nghiệm thực tế cho biết, ngay cả
những người nghiện cũng không nhận ḿnh là nghiện chứ chưa nói tới việc chừa.
Chính v́ thế Chúa Giêsu đ̣i hỏi sự từ bỏ, hoán cải trước rồi mới tới việc tin
nhận và tiến vào nước trời.
Tóm lại, để có khả năng
chấp nhận và sửa sai, ta cần phải có những điểm sau đây:
1.
Chấp nhận con
người thực của ḿnh. Ḿnh như thế nào, làm sao th́ phải chấp nhận như thế. Và
bằng ḷng về những ǵ ḿnh có. Tuy nhiên sự chấp nhận ấy không mang tính cánh
tiêu cực, mà cần phải có tầm nh́n tích cực. Sự chấp nhận sửa sai, hoán cải mà
Chúa Giêsu đ̣i hỏi nằm ở điểm này. Sửa sai cho nên tốt, và sửa sai để cải tiến.
2.
Một khi đă biết
ḿnh cần phải sửa sai, cần phải canh tân th́ bằng quyết tâm và ư chí thực hành,
phải có những dự tính và chương tŕnh sửa đổi. Thí dụ, mỗi ngày chừa đi một câu
chửi thề hay mỗi tuần bớt đi một loon bia chẳng hạn. Quyết tâm phải cụ thể, đo
điếm và kiểm soát được chứ không phải chỉ là lời hứa suông.
3.
Sau cùng là phải
cầu nguyện và tin nhận vào sự trợ lực của trời cao. Chúa Giêsu đă nói: “Không có
Cha, chúng con không làm chi được”.
Hy sinh, từ bỏ hay xám
hối, chính là con đường dẫn ta tới sự toàn thiện để đón nhận Đức Kitô vào cuộc
đời của mỗi cá nhân. Sự tiếp nhận này sẽ thăng hoa cuộc sống và làm cho cuộc
sống thêm ư nghĩa và có giá trị. Và dù dưới nhăn quan tâm lư hay đạo đức, những
nỗ lực này luôn luôn cần thiết để tăng trưởng cuộc sống tâm lư và tâm linh con
người.
TRONG BÓNG TỐI SỰ CHẾT
Trần Mỹ Duyệt
“Ông đă được báp tem chưa? Chúng tôi đến đây giúp ông chịu phép báp tem.” Đó là
câu hỏi mà nhiều người Việt Nam chúng ta thỉnh thoảng vẫn được nghe hỏi bởi một
số anh chị em Tin Lành, nhất là giáo phái Giêhôva, với một tập tài liệu bằng
Việt và Anh ngữ in rất đẹp mang tự đề “Tháp Canh”. Hoặc anh chị em thuộc giáo
phái Các Thánh Hữu Ngày Sau theo Mormon.
Điều mà những Kitô hữu chúng ta nếu để ư thấy là những người đến với chúng ta,
họ đến bằng một nhiệt t́nh rất thiết tha, chân thành, và cũng rất sùng mộ. Họ
đến không được lần này, họ sẽ t́m dịp đến lần sau. Nếu họ không có cơ hội nói
nhiều, họ chỉ xin nói với chúng ta một vài câu giới thiệu rồi để lại những tài
liệu và kiên tŕ chờ chúng ta cho phép. Họ chỉ cần bước vào nhà chúng ta là họ
có thể nói với chúng ta hàng giờ về Chúa Giêsu (Đấng Christ), về tin mừng của
Ngài, về ngày cánh chung, về việc chịp phép Báp tem (Rửa Tội). Điều này trái
ngược hoàn toàn với quan niệm và lối sống đạo của nhiều Kitô hữu, là giữ đạo để
lên Thiên Đàng. Việc truyền giáo, việc rao giảng Tin Mừng, việc đạo là để mấy
ông cha, bà phước. Tiếc một điều là lối suy nghĩ và sống đạo ấy lại hợp với lối
suy nghĩ, sống đạo, và giảng đạo của một số các chủ chăn.
Tại tổng giáo phận kia, nơi có đông đồng hương Công Giáo Việt Nam, một hội đoàn
trẻ được thành h́nh. Nó hoàn toàn phù hợp với tôn giáo, và trong tinh thần mật
thiết kết hợp với Giáo Hội, truyền đạo cho thành phần trẻ. Nhưng tâm huyết, ḷng
nhiệt thành, và tinh thần hoạt động của những người chủ trương cũng như của giới
trẻ đă bị một số linh mục thẳng tay dẹp bỏ. Lư do chính là không muốn bận bựu.,
hoặc không muốn có thêm những ǵ vẫn đă có sẵn trong sinh hoạt giáo xứ, cộng
đoàn từ trước.
Hơn 2000 năm trước, Con Thiên Chúa đă giáng trần và đă trở thành ánh sáng của
muôn dân. Thánh Kinh đă ghi lại lời của Isaia làm chứng về Ngài: “Hỡi đất
Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của
ngoại bang. Dân ngồi trong bóng tối tăm, đă thấy ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đă
xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết” (Mt 4:15-16).
Ánh sáng cứu độ như vậy đă rọi chiếu vào những vùng tăm tối, nhưng ánh sáng ấy
sau hơn 2000 năm, ở vào thời đại chúng ta đang sống vẫn chưa chiếu xa khỏi nhiều
khuôn viên nhà thờ, nhiều khung cửa nhà số đông các Kitô hữu. Người ta cứ đọc
kinh rang rang, rước sách linh đ́nh, rầm rộ, đền tạ liên miên. Các linh mục vẫn
cứ ngồi ṭa ngất ngư vào những dịp Giáng Sinh, Phục Sinh. Nhưng rồi chỉ có thế.
Nếu có ai hỏi thêm về giáo lư của Giáo Hội, về tinh thần Kitô Giáo, về đời sống
của Giáo Hội, và về Chúa Giêsu th́ không biết.
Sau gần 2 giờ tranh luận về Giáo Lư liên quan đến ḷng sùng mộ Đức Trinh Nữ
Maria, một giáo dân đă hỏi vị linh mục: “Vậy cha đă đọc những điều này trong
sách Giáo Lư của Giáo Hội chưa?” Vị linh mục trả lời “chưa có giờ đọc” với lời
giải thích: “Chỉ đọc chung chung những điều về tín lư, luân lư, c̣n về Đức Mẹ
th́ không đọc bao giờ”.
Sống đạo như vậy, giảng đạo như vậy, th́ chẳng lạ ǵ mà ánh sáng của Ơn Cứu Độ
cho đến nay vẫn c̣n luẩn quẩn bên trong các nhà thờ, chung quanh các khuôn viên
thánh đường, và nhà của nhiều tín hữu. Đây là lối sống đạo và hành đạo mà theo
tư tưởng của một linh mục truyền giáo tại Uùc là “giữ đạo” hiểu theo một nghĩa
đen thuần túy. Giữ chứ không “sống đạo”, “hành đạo” và “truyền đạo”. Và đây cũng
là lư do tại sao Đức Gioan Phaolô II, trong dịp mở màn Thiên Niên Kỷ III, Ngài
đă hô hào Giáo Hội và mọi Kitô hữu là “Hăy thả lưới chỗ nước sâu” tức là hăy đi
ra khỏi con người ích kỷ, khỏi gia đ́nh họp ḥi, khỏi giáo xứ nhỏ nhoi, mà vươn
tới những anh chị em đang cần được soi dẫn và ánh sáng Cứu Độ chiếu soi, để cùng
đem họ về với Chúa. V́ đây chính là ơn gọi của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô
hữu khi lănh nhận Bí Tích Rửa Tội: “Hăy đi khắp cùng bờ cơi trái đất và công bố
Tin Mừng cho muôn dân” (Mc 16:15).
“Ngồi trong bóng tối sự chết”. Lời Thánh Kinh hôm nay nhắc nhở mỗi Kitô hữu
chúng ta về 2/3 dân số trên thế giới giờ này vẫn chưa một lần được nghe nói về
Chúa Giêsu, về ơn cứu độ và sự giải phóng tâm linh của Ngài. Và như vậy, liệu
chúng ta có muốn đem ánh sáng cứu độ của Ngài đến với những anh chị em c̣n đang
trong bóng tối của tội lỗi, của Satan, và sự chết không? Nếu có, trước hết chúng
ta phải để ánh sáng ấy chiếu sáng tâm hồn và cuộc đời ḿnh. Rồi bằng một ḷng
nhiệt thành, sốt sắng, chúng ta mang ánh sáng ấy đến với những anh chị em quanh
ḿnh, thay v́ để ánh sáng này luẩn quẩn bên trong nhà thờ, khuôn viên giáo đường,
tại pḥng khách nơi có bàn thờ Chúa, bàn thờ Đức Mẹ. Nhưng ánh sáng ấy là ǵ?
- Là những lời nói dịu dàng, cử chỉ thân ái, tinh thần phục vụ của người vợ,
người chồng, người cha, người mẹ trong gia đ́nh.
- Là sự thủy chung và tôn trọng nhau trong đời sống hôn nhân, gia đ́nh.
- Là ḷng yêu mến, chân thành thánh hoá của đời tận hiến.
- Là sự kính trọng, tôn kính và hiếu thảo của những người con.
- Là tư cách đứng đắn, ngay thẳng và liêm khiết trong giao tiếp thường ngày với
mọi người.
- Là công bằng và thành thật trong cách thức làm ăn, buôn bán, và đối xử với mọi
người.
- Là ḷng thương xót, vị tha, và kính trọng đối với mọi người, nhất là những
người nghèo khổ, bệnh tật và già yếu.
- Là ḷng yêu mến chân thành đối với Thiên Chúa và Giáo Hội.
|