9.- Lương Tâm Là Ơn Gọi Làm Người
T
hật vậy, chính v́ lương tâm là ơn gọi làm người mà làm ǵ, trước hết và trên hết, con người cũng phải làm theo lương tâm, bằng không, dù là tổng thống, tu hành, bác sĩ, luật sư, nghệ sĩ, giáo sư v.v., họ cũng chỉ là những thằng người múa rối trong chức vụ, vai tṛ và nghề nghiệp của ḿnh trên khấu trường xă hội. Không phải hay sao, chỉ có loài sinh vật “nhân linh ư vạn vật” mới có lương tâm, nghĩa là mới có một yếu tố siêu linh được phú bẩm nơi họ, để họ có thể nhờ đó sống xứng hợp với thân phận làm người của họ, một thân phận trổi vượt trên thú vật? Như thế, nếu không sống theo lương tâm, theo yếu tố siêu linh có thể giúp họ thực sự làm người này, th́ dù ở bất cứ thời đại nào, và dù thời đại ấy có văn minh đến đâu chăng nữa, như thời đại toàn cầu hóa và toàn quyền tự do dân chủ hiện nay, con người vẫn chưa đạt được, nếu không muốn nói là càng không thể đạt được tầm vóc làm người toàn vẹn của ḿnh.
Vậy để tránh t́nh trạng “đóng khố đi giầy tây” như thời đại chúng ta hiện nay, một thời đại trong khi đi đôi “giầy tây” về văn minh kỹ thuật và khoa học th́ lại “đóng khố” về luân lư, chúng ta hăy cùng nhau chia sẻ đề tài lương tâm qua những vấn đề sau đây:
- Lương Tâm có bao giờ cảm thấy áy náy hay chăng?
- Lương tâm phải chăng chính là nhân đạo?
- H́nh khổ nhất của con người phải chăng là bị lương tâm cắn rứt?
- Nếu không theo lương tâm th́ bị cắn rứt vậy phải chăng b́nh an là dấu sống theo lương tâm?
1. Lương Tâm có bao giờ cảm thấy áy náy hay chăng?
Mỗi lần làm một điều ǵ sai quấy, trái lương tâm của ḿnh, hay mỗi lần bị dầy ṿ bởi mặc cảm tội lỗi về những việc làm sai trái của ḿnh, con người hay nói và thường nói: “lương tâm tôi cảm thấy áy náy”, hay “tôi cảm thấy áy náy lương tâm”, hoặc “tôi cảm thấy áy náy trong lương tâm”. Thoạt nghe qua, ai trong chúng ta cũng cho rằng câu phát biểu này hoàn toàn đúng, không có ǵ là vô lư cả? Tuy nhiên, nếu để ư kỹ, chúng ta sẽ thấy câu chúng ta thường nói “đi khám bác sĩ” là sai, đúng hơn là thiếu sót, thế nào, th́ trong câu phát biểu “lương tâm tôi cảm thấy áy náy”, hay “tôi cảm thấy áy náy lương tâm” hoặc “áy náy trong lương tâm”, cũng thế. Tại sao? Đó là lư do, để có thể giải quyết vấn đề này một cách chính xác và dứt khoát “có” – lương tâm có cảm thấy áy náy, hay “không” – lương tâm không cảm thấy áy náy, chúng ta cần phải tái nhận thức lương tâm thực sự là ǵ, hay bản chất đích thực của lương tâm là ǵ đă.
Theo quan niệm chung, chúng ta thường cho rằng lương tâm là tiếng nói linh thiêng trong nội tâm của con người. Chính v́ thế người Kitô hữu vẫn tin rằng lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa. Và con người cảm thấy rằng sở dĩ lương tâm hiện diện một cách linh thiêng cũng như thầm kín nơi thâm cung của ḷng trí họ là để bảo họ làm lành lánh dữ. Khách quan mà nói, chính lương tâm là một dấu chứng hùng hồn nhất cho con người thấy, dù họ có vô thần đến đâu, sự hiện hữu sống động của Thượng Đế, của Đấng Tối Cao. Bởi v́, họ làm ǵ cũng không tránh khỏi lương tâm, tránh khỏi ánh mắt công minh của Ngài. Dù việc họ làm hết sức tinh khôn và bí mật, đến nỗi không một FBI hay CIA nào trên trần gian này, dù tài giỏi đến mấy đi nữa, có thể điều tra ra, có thể phanh phui ra sự thật, chẳng hạn như ai đă chủ mưu và ra tay ám sát tổng thống Kennedy ở Hoa Kỳ tại Dallas ngày 22/11/1963, hay như ai đă chủ mưu trong vụ ám sát hụt Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ngày 13/5/1983 tại Rôma, họ vẫn không tránh được ánh mắt của Ngài. Hơn thế nữa, chính v́ lương tâm là ánh mắt thần linh trong con người, mà ngay trước cả khi con người làm bất cứ điều ǵ xấu xa, sai trái, con mắt thần linh này đă thấy rồi, và đă lập tức báo động cho họ biết mà c̣n lên tiếng can gián họ đừng làm điều ấy nữa.
Theo tôn giáo, lương tâm quả vừa là tiếng nói thần linh vang vọng trong con người vừa là ánh mắt thần linh theo dơi cuộc đời của con người. Trong Sách Sáng Thế Kư, cuốn đầu tiên của Bộ Thánh Kinh của Do Thái Giáo, ngay từ khi con người vừa xuất hiện trên mặt đất này th́ đă có tiếng lương tâm rồi. Tiếng lương tâm đầu tiên nói với con người về quyền hạn, nghĩa vụ và thân phận của họ tổng quan và dứt khoát như thế này: “Ngươi được phép ăn mọi thứ cây trong vườn, trừ cây biết lành biết dữ. Ngươi không được ăn cây đó; lúc nào ngươi ăn nó th́ ngươi phải chết” (Gen 2:6-7). Và con người đă ư thức được tiếng lương tâm này, khi nó vang vọng nơi họ lúc họ bị rắn quỉ tinh khôn, tượng trưng cho mưu chước cám dỗ, xúi giục họ ăn trái cấm, làm ngược lại với lương tâm, với lệnh cấm của Thiên Chúa: “Chúng tôi được phép ăn mọi thứ cây trong vườn, trừ cây biết lành biết dữ ở giữa vườn th́ Thiên Chúa nói ‘ngươi không được ăn hay sờ đến kẻo chết’” (Gen 3:2-3). Thế nhưng, dù có ư thức được tiếng nói thần linh như vậy, con người vẫn làm ngược lại tiếng nói chân thật ấy, tức đă giơ tay lên hái trái cấm mà ăn. Để rồi, hậu quả xẩy ra là, họ đă không chạy thoát khỏi ánh mắt thần linh. Cũng theo Sách Sáng Thế Kư này cho biết, dù sau khi đó, con người có khôn lanh ẩn ḿnh trốn kỹ sau những đám cây trong vườn địa đường, họ vẫn nghe được tiếng lương tâm hạch hỏi: “Ngươi đang ở đâu?”, và đă phải lên tiếng thú nhận: “Tôi đă nghe thấy tiếng của Ngài trong vườn; nhưng tôi sợ hăi v́ tôi trần truồng, nên tôi mới ẩn ḿnh đi” (Gen 3:8-13). Chưa hết, hậu quả của việc hai con người tiên khởi Adong-Evà này ăn trái cấm c̣n tai hại hơn nữa, một tai hại liên quan tới cả gịng dơi con cái của họ. Sách Sáng Thế Kư c̣n cho biết thêm là Cain, đứa con trai đầu ḷng của họ, chỉ v́ ghen tị với đứa em trái của ḿnh, đă ra tay hạ sát nó ngoài đồng vắng. Ngay sau đó hắn đă nghe thấy tiếng thần linh hạch hỏi: “Abel em của ngươi đâu rồi?” (Gen 4:9), và đă tỏ ra cảm thấy sợ hăi trước ánh mắt thần linh của Ngài mà nói: “… Tôi phải lánh khỏi mặt Ngài để trở thành một kẻ lang thang trên trái đất này…” (Gen 4:14).
Đối với một số người, câu truyện về nguyên tổ Adong-Evà trên đây có thể là một câu truyện thần thoại. Tuy nhiên, câu truyện thần thoại này rất tiếc dầu sao cũng cho thấy những điều rất xác thực với kinh nghiệm ngàn đời bất biến nơi đời sống tâm linh của con người.
Điều xác thực thứ nhất, đó là, tự bẩm sinh con người đă có lương tâm; lương tâm chính là cây biết lành biết dữ được trồng ngay giữa khu vườn tâm linh của con người.
Điều xác thực thứ hai, đó là, con người có tự do, và được quyền làm bất cứ điều ǵ, miễn là đừng đụng chạm hay phạm đến đến lương tâm.
Điều xác thực thứ ba, đó là, bất cứ khi nào con người đụng phạm đến lương tâm, tức nuốt đi tiếng lương tâm của ḿnh, như Adong-Evà đă nuốt trái cấm, con người đều phải chết, nghĩa là không c̣n sống trong chân lư là người của ḿnh nữa, đă đánh mất đi bản thân ḿnh trong tối tăm gian dối.
Điều xác thực thứ bốn, đó là, sau khi đă đụng phạm đến lương tâm, con người vẫn có khả năng hồi tâm và hoán cải, nếu biết đáp ứng tiếng nhắc nhở của lương tâm: “Ngươi đang ở đâu?”, tức ngươi có sống đúng thân phận làm người đích thực của ḿnh chăng, nếu chưa th́ hăy trở về với vị trí tạo vật hữu hạn của ḿnh đi.
Điều xác thực thứ năm, đó là, nếu con người ngoan cố không chịu chấp nhận lỗi lầm của ḿnh, tức không chấp nhận sự thật phũ phàng về con người xấu xa của ḿnh, đi đổ lỗi cho nhau, như Adong đổ lỗi cho Evà, họ sẽ thực sự sống trong sự chết và sinh ra chết chóc, như Adong-Evà đă sinh ra đứa con đầu ḷng Cain, một đứa con sát nhân.
Điều xác thực thứ sáu, đó là, tất cả những việc làm của con người trong t́nh trạng chết chóc, tức trong t́nh trạng họ không chịu chấp nhận sự thật xấu xa phũ phàng về ḿnh, nghĩa là trong t́nh trạng tối tăm gian dối, cuộc đời của họ sẽ trở thành hoang đường bất định lạc loài trên trần thế, đúng như Cain đă thú nhận: “Tôi phải lánh khỏi mặt Ngài để trở thành kẻ lang thang trên trái đất này”.
Điều xác thực thứ bảy liên quan đến cơ cấu tinh thần của con người, đó là, nơi phần thượng, con người bao giờ cũng có hai phần, phần chủ quan và phần khách quan: Phần chủ quan là chính tâm linh của con người, và phần khách quan chính là lương tâm nơi con người; nếu lương tâm được thể hiện qua tiếng phán “ngươi được phép ăn mọi thứ cây trong vườn, chỉ trừ cây biết lành biết dữ giữa vườn”, hay tiếng hạch hỏi Adong “Ngươi đang ở đâu?”, hoặc tiếng hạch hỏi Esau “Em ngươi ở đâu?”, th́ tâm linh thể hiện ở chỗ Evà ư thức tiếng phán “được phép song chỉ trừ” ấy, cũng như ở chỗ Adong và Esau nhận thức được ḿnh bị hạch hỏi về tác hành đă làm.
V́ vấn đề thứ nhất được đặt ra ở đây liên quan đến điều xác thực thứ bảy này, chúng ta cần phải phân tích thêm để có thể đi đến một giải đáp thỏa đáng cho vấn nạn “Lương Tâm có bao giờ cảm thấy áy náy hay chăng?”
Như trên mới phân tích, tâm linh là ư thức của con người về chính bản thân ḿnh cũng như về những thực tại liên quan đến con người. C̣n lương tâm nơi con người là thực tại không thuộc về con người, dù ở trong con người nhưng lại ở trên con người, nên có quyền truyền khiến con người phải tác động, cũng như có quyền khiển trách tác động gian ác của con người hay tán thưởng tác động lành thánh của con người.
Như thế, nếu lương tâm là tiếng nói thần linh, tiếng nói chân thật, th́ không bao giờ lương tâm lại hối hận, lại áy náy, như thể đă nói con người làm những điều bậy bạ, bảo con người làm những ǵ sai quấy. T́nh trạng áy náy chỉ phát xuất từ tâm linh ư thức của con người mà thôi, từ cảm thức tội lỗi của họ, chứ không phải từ chính lương tâm nơi họ. Họ cảm thấy áy náy, chẳng những v́ họ đă không làm theo tiếng lương tâm chân thật, mà c̣n áy náy nhất là v́ thấy hậu quả của lỗi lầm do họ đă gây ra nữa. Vậy nếu câu nói “tôi đi đến bác sĩ khám bệnh”, đúng hơn là câu nói “tôi đi khám bác sĩ” thế nào, th́ câu nói “tôi cảm thấy áy náy với lương tâm”, cũng đúng hơn là câu nói “tôi cảm thấy lương tâm áy náy”, hay câu nói “tôi cảm thấy áy náy trong lương tâm”, hoặc câu nói “lương tâm tôi cảm thấy áy náy” như thế.
2. Lương tâm phải chăng chính là nhân đạo?
Vấn đề ở đây cũng thế, muốn sáng tỏ, chúng ta cũng cần phải phân biệt một chút về nhân đạo và thiên đạo, như chúng ta đă phân biệt tâm linh của con người với lương tâm nơi con người trên đây.
Trước hết, về ư nghĩa, thiên đạo tức là đạo trời, hay đạo bởi trời, đạo từ trời ban xuống, chứ không phải đạo bởi người, không phải là nhân đạo, đạo do con người nghĩ ra.
Sau nữa, về tính cách hay bản chất, v́ thiên đạo là đạo từ trời mà có, một thứ đạo bởi trời, nên phải là một thứ đạo chân thật, trọn lành và bất biến, c̣n nhân đạo, v́ là đạo bởi con người “nhân vô thập toàn” mà ra, nên có thể sai lầm, bất hảo và lỗi thời.
Sau hết, về tác dụng, v́ thiên đạo là đạo trọn lành nên thiên đạo tiềm tàng một quyền năng siêu việt có thể chẳng những giải thoát con người đến độ làm cho họ siêu thoát khỏi mọi tục lụy, mà c̣n biến đổi con người phàm tục thành Phật như bên Phật Giáo, hay thành Thánh như bên Kitô Giáo. Trong khi đó, nhân đạo, v́ là đạo bởi con người mà có và do con người nghĩ ra, do đó, về phương diện tích cực, nó chỉ có thể giúp cho con người sống xứng hợp với thân phận “nhân linh ư vạn vật” của ḿnh thôi.
Tới đây, chúng ta thấy nhân đạo cần phải có thiên đạo, không thể nào thiếu thiên đạo, bằng không, về mặt tiêu cực, nhân đạo có thể sẽ trở thành ngộ đạo, hay thậm chí vô đạo, như chúng ta đă chứng kiến thấy tận mắt tỏ tường những ǵ “ngộ đạo” và “vô đạo” đang diễn tiến trong xă hội văn minh của chúng ta hiện nay. Con người văn minh ngày nay không bị “ngộ đạo” hay sao, khi không c̣n biết đến tội phúc là ǵ, hay không c̣n biết phân biệt rơ ràng đâu là tội phúc, thậm chí c̣n đi đến chỗ cho lành là dự và dữ là lành. Con người văn minh ngày nay cũng không rơi vào t́nh trạng “vô đạo” là ǵ, v́ họ chối bỏ cả khả năng có thể nhận biết sự thật của ḿnh, quay ra sống theo chiều hướng luân lư tương đối và buông thả.
Qua những ǵ phân tách trên đây về ư nghĩa, bản chất và tác dụng giữa thiên đạo và nhân đạo, chúng ta thấy lương tâm nơi con người hội đủ điều kiện để đóng vai thiên đạo, và văn hóa của con người đóng vai nhân đạo, bao gồm cả những đạo giáo do con người sáng lập. Có thể nói, đạo giáo do con người sáng lập là mức độ cao nhất của văn hóa, v́ những đạo giáo này hoàn toàn phản ảnh lương tâm của con người, phản ảnh những ǵ tâm linh con người ư thức được nhờ lương tâm.
Bởi vậy, văn hóa đích thực phải là thứ văn hóa thấm nhuần lương tâm, là thứ văn hóa diễn đạt lề luật luân lư phổ quát, tức thứ văn hóa phản ảnh những ǵ được ghi khắc giống nhau theo bẩm sinh trong thâm tâm của tất cả mọi người cũng như của từng người, qua tất cả mọi thời đại, từ khi con người xuất hiện trên đời tới khi không c̣n một ai trên mắt đất này nữa.
Tuy nhiên, đóng vai tṛ là tiếng nói thần linh trong thâm tâm con người và là ánh mắt thần linh theo dơi cuộc đời con người, tự bản chất, lương tâm không phải là chính thiên đạo, mà chỉ là thừa tác viên của thiên đạo nơi con người mà thôi. Vả lại, lương tâm cũng vẫn có thể bị con người lấn át, làm chủ và thậm chí bóp chết trong bàn tay bản năng lông lá của họ.
Nếu văn hóa là biểu hiệu cho nhân đạo và lương tâm biểu hiệu cho thiên đạo th́ hiện tượng văn hóa duy nhân bản pro choice ngày nay đă không lấn át, vặn cổ và làm thịt lương tâm là ǵ, bằng những con dao phay luật lệ, chọc tiết luân thường moi tim đạo lư.
Tuy nhiên, dù văn hóa là biểu hiệu cho nhân đạo có sát hại được biểu hiệu của thiên đạo là lương tâm, nhưng vẫn không thể nào tiêu diệt được chính tiếng lương tâm, tức tiêu diệt được chính chân lư lương tâm có sứ vụ phải loan truyền cho con người. Bởi đó, dù con người có lấn át lương tâm, đè nén lương tâm để hành ác lánh thiện, họ vẫn bị áy náy, bị tiếng nói bất diệt của lương tâm không thôi cắt rứt, cho đến khi họ chấp nhận sự thật, chấp nhận lỗi lầm của ḿnh…
Như thế, so với văn hóa là biểu hiệu cho nhân đạo, th́ lương tâm là biểu hiệu cho thiên đạo, song lương tâm tự ḿnh vẫn không phải là chính thiên đạo. Thiên đạo đây chính là tiếng nói của lương tâm, là chân lư tối thượng, một chân lư tự bản chất của ḿnh đóng vai như mặt trời soi chiếu và tỏa nhiệt để làm cho sinh vật sinh động và phát triển. Bởi vậy, so với chính tiếng lương tâm này, với vai tṛ thừa sai và sứ giả của ḿnh, lương tâm chẳng khác ǵ như mặt trăng tiếp nhận ánh sáng từ mặt trời để chiếu soi cho trái đất, cho con người.
Có thể nói, lương tâm chính là nhân đạo, là phản ánh mặt trời chân lư tối thượng để soi sáng cho văn hóa con người, làm cho con người có thể sống động xứng với thân phận làm người của ḿnh và phát triển cho tới khi hoàn thành ơn gọi làm người của ḿnh, một ơn gọi sống trọn lành được thể hiện qua một cuộc đời yêu thương trọn hảo. Bởi thế thực tế làm người mới cho thấy, bất cứ những ǵ phạm nhân bản, ngược với yêu thương, đều vô nhân đạo, như hà hiếp, bóc lột. Thậm chí thấy khổ mà không cứu cũng thế, cũng là những ǵ vô nhân đạo.
Chưa hết, nhân đạo liên hệ mật thiết đến yêu thương, tức đến những ǵ liên hệ với chủ thể, đúng hơn đến mối hiệp thông đại kết. Do đó, thái độ hành hạ thú vật chỉ v́ giận cá chém thớt, hoặc hành hạ chúng một cách vô cớ, cũng là những ǵ vô nhân đạo đối với đối tượng nạn nhân. Hành động tàn phá môi sinh chỉ v́ tư lợi trên hết, cũng được kể là những hành động vô nhân đạo, đối với chủ thể tác hành. Nếu những ǵ con người phạm đến nhân đạo đều làm cho tâm linh con người cảm thấy áy náy với lương tâm th́ quả thực lương tâm chính là nhân đạo vậy.
Tóm lại, về vị thế đối với tâm linh con người, so với văn hóa th́ lương tâm đóng vai thiên đạo, thế nhưng, tự bản chất của ḿnh chỉ là thừa sai của chân lư và là sứ giả cho chân lư, tức so với chính tiếng nói của lương tâm, so với chính sự thật lương tâm muốn truyền đạt cho tâm linh con người, th́ lương tâm chỉ đóng vai nhân đạo mà thôi. Có thể nói, lương tâm chính là nhân đạo của con người và cho con người vậy.
3. H́nh khổ nhất của con người phải chăng là bị lương tâm cắn rứt?
Thật ra, nếu lương tâm không áy náy thế nào, th́ lương tâm cũng không cắn rứt như vậy, như chúng ta vẫn thường thú nhận “tôi bị lương tâm cắn rứt” hay “tôi bị cắn rứt trong lương tâm”. Sở dĩ lương tâm không áy náy là v́ lương tâm bao giờ cũng truyền dạy những điều chân thiện, xứng hợp với thân phận làm người và đáp ứng ơn gọi làm người của con người. Và sở dĩ lương tâm cũng không cắn rứt là v́ lương tâm không có toàn quyền phán quyết về số phận của con người, trái lại, lương tâm c̣n có thể bị con người lấn át, bịp miệng và bóp mũi chết là đàng khác.
Vậy nếu con người có khả năng giết chết lương tâm, th́ con người đâu c̣n sợ lương tâm cắn rứt hành khổ ḿnh nữa? Rất tiếc, thực tại phũ phàng đă cho thấy, dù con người có sát hại lương tâm để làm theo những ǵ ḿnh nghĩ là đúng và những ǵ ḿnh muốn là hay đi nữa, con người vẫn không trốn được chính tiếng lương tâm hạch hỏi: “Ngươi đang ở đâu?”, như trường hợp nguyên tổ của loài người sau khi đă ăn cây trái cấm trong vườn địa đường để thỏa măn giấc mộng muốn lên bằng Thiên Chúa, hay “Em ngươi đâu rồi?”, như trường hợp Cain sau khi đă sát hại Abel em ḿnh ngoài cánh đồng vắng để thơa măn cơn hận hờn ghen.
Tuy nhiên, tự ḿnh, tiếng lương tâm cũng không phải là h́nh phạt giáng xuống con người phản loạn vô loài. Nếu mặt trời không thể nào không soi chiếu thế nào, tiếng lương tâm là chân lư cũng không thể nào không lên tiếng như vậy. Nếu con người cần phải có ánh sáng để sinh động thế nào, con người cũng không thể nào thiếu tiếng lương tâm để có thể làm lành lánh dữ như vậy. Tuy nhiên, nếu con người đau mắt không dám ra trước ánh sáng để mắt đau của ḿnh khỏi bị hành bởi ánh sáng thế nào, th́ những ai sống trong tăm tối của ác ư, của tà tâm, của sự dữ cũng sợ phơi ḿnh trước ánh sáng như vậy, đúng như lời Đấng Sáng Lập Kitô Giáo đă khẳng định: “Việc luận phán là như thế này, đó là ánh sáng đă đến trong thế gian, nhưng con người yêu tối tăm hơn ánh sáng, v́ họ làm các việc gian ác. Ai làm điều gian ác th́ ghét ánh sáng; họ không dám đến gần ánh sáng, v́ sợ các việc làm của họ bị bại lộ” (John 3:19-20).
Đúng thế, đối với thành phần gian ác, ánh sáng chính là h́nh phạt của họ và cho họ, là h́nh phạt duy nhất và trên hết đối với họ, v́ họ không thể nào thoát khỏi sự hiện diện thấu suốt của nó, v́ họ lúc nào cũng phải đối diện với sự thật, một sự thật mà nếu họ chấp nhận và phơi ḿnh ra sẽ được viên trọn, bằng không họ sẽ vĩnh viễn sống trong tăm tối, sẽ trở thành như loài ma quái hư hư ảo ảo vậy…
Có thể nói, h́nh khổ nhất của con người không phải chỉ là t́nh trạng họ sống trong hư ảo v́ cố tránh né sự thật làm người, hay t́nh trạng họ c̣n lầm lạc chưa sống đúng với sự thật làm người của ḿnh, mà chính là t́nh trạng lúc nào cũng phải đối diện với chân lư tối thượng, một chân lư hết sức chói lọi làm cho họ thấy lỗi lầm của ḿnh, cùng với cái tai hại của những ǵ họ đă chọn lựa cũng như theo đuổi một cách ngược chiều và lạc loài, những hành động đă gây thiệt hại chẳng những cho chính bản thân của họ, mà c̣n cho cả tha nhân đồng loại của họ cũng như cho chung thiên nhiên tạo vật vậy.
Tóm lại, h́nh khổ của một con người không sống theo lương tâm đó là lúc nào họ cũng cảm thấy bất an và bất định. Cuộc sống của họ là một cuộc sống hoang đường, một cuộc sống lang thang trên trần thế, đúng như Sách Sáng Thế Kư của Do Thái Giáo thuật lại về trường hợp của Cain, nhân vật đă thú nhận tâm trạng của ḿnh khi bị hạch hỏi về tội ra tay hạ sát Abel em ḿnh là: “Tôi phải lánh khỏi mặt Ngài để trở thành một kẻ lang thang trên trái đất này”. Đúng thế, thấy được hay biết được sự thật cùng đích của ḿnh nhưng lại không đạt tới cùng đích sự thật của ḿnh ấy chính là h́nh khổ nhất của con người vậy.
4. Nếu không theo lương tâm th́ bị cắn rứt vậy phải chăng b́nh an là dấu sống theo lương tâm?
Kinh nghiệm tâm linh cho thấy, có những lúc con người lộng hành phạm pháp mà vẫn chẳng cảm thấy áy náy ǵ cả. Một là v́ ḷng họ đă trở nên chai đá, không c̣n sợ tội hay c̣n biết đến tội lỗi là ǵ nữa. Hai là v́ họ thấy ḿnh có quyền làm những điều ấy, v́ những điều ấy đă được luật pháp công nhận và cho phép làm. Ba là tự họ thấy có lư, bởi họ là một con vật có lư trí, không thể làm ǵ mà lại không có lư, mà đă có lư th́ c̣n ǵ phải lo, v́ cái lư đó không phải là sự thật hay sao? Trái lại, cũng có những lúc con người lại tỏ ra hết sức bối rối bất an, không biết phải làm sao cho đúng, dù thấy lư lẽ ḿnh viện ra không có ǵ là sai trái cả. Chưa hết, sau khi đă cân nhắc kỹ lưỡng đủ thứ, và đă lấy thiện chí làm đúng theo lương tâm của ḿnh rồi, mà họ vẫn c̣n phải chịu những hậu quả bất hạnh ngoài ư muốn v.v…
Như thế, phải chăng bối rối hay b́nh an là tiêu chuẩn đánh giá trị đích thực của việc làm, là dấu chứng tỏ cho thấy việc làm của con người thực sự đúng hay sai, lợi hay hại, tốt hay xấu v.v.?
Lập luận này rất hợp với chiều hướng của chủ nghĩa thực dụng ngày nay, v́ chủ nghĩa này cho rằng những ǵ có lợi trước mắt th́ được phép làm, như ly dị là có lợi nên được làm, hay phá thai là có lợi nên được làm. Nghĩa là, nếu suy diễn theo phương pháp luận, th́ những ǵ có lợi đều tốt, mà đă tốt th́ được phép làm, thậm chí không làm c̣n có tội nữa là đằng khác. Chẳng hạn, không phá đi cái thai được bác sĩ cho biết là bị tật nguyền th́ sẽ gây cho xă hội thêm gánh nặng, hay nếu không giết người không thể chịu đựng bệnh tật được nữa, họ sống c̣n hơn chết, như lời họ van xin, th́ có tội với họ, v́ gián tiếp nhúng tay vào làm khổ họ, do đó thà cho họ chết đi c̣n hơn v.v.
Với những lập luận thực dụng ấy, ngày nay người ta giết người một cách hết sức yên tâm, không áy náy ǵ hết. Vấn đề ở đây là nếu làm ǵ sai quấy đều bị lương tâm cắn rứt, mà nếu không bị lương tâm cắn rứt, nghĩa là cảm thấy yên tâm th́ có phải con người đă sống theo lương tâm?
Vấn đề rất phức tạp này liên quan hết sức chặt chẽ với vấn đề bản chất tội lỗi: tội lỗi là ǵ, cũng như đến cảm thức tội lỗi: có tội hay chăng? Chúng ta sẽ tiếp tục chia sẻ hai vấn đề thiết yếu và nồng cốt này ở bài “Cảm Thức Tội Lỗi” (xin xem cùng một tác giả cuốn “Yêu Thương và Sự Sống, trang 311).