Thánh Josemaría Escrivá
Lễ
Phong Thánh cho Vị Sáng Lập Tổ Chức Opus Dei
|
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă dâng Thánh Lễ Phong Thánh cho Đức Ông Escrivá tại Quảng Trường Thánh Phêrô sáng Chúa Nhật 6/10/2002 trước 300 ngàn người tham dự. Trong bài giảng của ḿnh, ĐTC nói sứ điệp của vị tân thánh này là hăy đứng lên chống lại “thứ văn hóa vật chất đang đe dọa làm hóa giải căn tính chân thực nhất của các môn đệ Chúa Kitô”. Đức Thánh Cha đă đọc lời tuyên phong lúc 10:23 sáng. Năm nay cũng là năm kỷ niệm bách chu niên ngày sinh nhật của vị tân thánh, vị sinh ngày 9/1/1902 ở Barbastro bắc Tây Ban Nha, và chết ở Rôma ngày 26/6/1975.
ĐTC cho biết giáo huấn của vị tân thánh này “hợp thời và khẩn trương”, như thể vị thánh luôn nói rằng, “bởi phép rửa đă lănh nhận làm cho họ tháp nhập với Chúa Kitô, người Kitô hữu được kêu gọi để gắn bó với Chúa bằng mối liên hệ không dứt và lâu bền”. ĐTC nhấn mạnh rằng tín hữu “được kêu gọi nên thánh và cộng tác trong việc cứu độ nhân loại”.
Ngỏ lời với các phần tử Opus Dei, ĐTC đă xin họ “hăy dâng thế giới lên Thiên Chúa và hăy biến đổi nó tự bên trong” theo “lư tưởng đă được đấng thánh sáng lập nhắc nhủ anh em. Theo bước chân của ngài, anh em hăy lan tràn trong xă hội, bất phân biệt ṇi giống, giai cấp, văn hóa, hay tuổi tác, ư thức là tất cả chúng ta đều được kêu gọi nên thánh”. Tuy nhiên, ĐTC đă nhắc lại lời khuyên của vị sáng lập thánh này như sau: “Trước tiên là cầu nguyện; sau đó mới đến việc ăn năn đền tội; thứ ba, thực sự ở chỗ thứ ba này là hoạt động. Đây không phải là điều ǵ mâu thuẫn mà là một sự thật căn bản, đó là hoa trái của việc tông đồ trên hết là ở việc cầu nguyện cũng như ở đời sống bí tích sốt sắng và liên lỉ”.
Vị tân thánh này được tuyên phong chân phước ngày 17/5/1992, cũng tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Việc phong thánh cho v́ sáng lập này sau đó đă bị công khai chống đối. Từ khi thành lập vào năm 1588 của ḿnh, Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh đă có tất cả 296 vị thánh, nhưng nguyên trong giáo triều của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, con số này đă được thêm 468 vị nữa, chưa kể đến 1294 vị chân phước trong giáo triều của Ngài.
Sau đây là bài giảng của ĐTC trong lễ Phong Thánh cho Chân Phước Josemaría Escrivá de Balaguer
1. “Tất cả những ai được Thần Linh Thiên Chúa dẫn dắt đều là con cái của Thiên Chúa” (Rm 8:14). Những lời này của Thánh Phaolô chúng ta vừa nghe trong cuộc tụ họp của chúng ta đây, giúp chúng ta hiểu rơ hơn sứ điệp quan trọng của việc phong thánh hôm nay cho Chân Phước Josemaría Escrivá de Balaguer. Ngài đă ngoan ngoăn phó mặc bản thân ḿnh cho Thần Linh dẫn dắt, với niềm tin tưởng rằng chỉ bằng cách ấy ư muốn của Thiên Chúa mới có thể được nên trọn mà thôi.
Sự thật Kitô Giáo tối yếu này là đề tài ngài liên lỉ rao giảng. Thật vậy, ngài
đă không thôi mời gọi con cái tinh thần của ḿnh hăy kêu cầu Chúa Thánh Thần để
đời sống nội tâm, tức đời sống liên hệ với Thiên Chúa, cũng như đời sống gia
đ́nh, nghề nghiệp và xă hội, tất cả tạo nên những thực tại trần gian nhỏ bé, sẽ
không bị tách biệt nhau, song tạo nên một cuộc sống duy nhất “thánh hảo và tràn
đầy Thiên Chúa”. Ngài đă viết: “Chúng ta thấy được Vị Thiên Chúa vô h́nh nơi
những sự vật hữu h́nh và hữu chất nhất” (“Những cuộc đàm đạo với Đức Ông Escrivá”,
số 114).
Giáo huấn này của ngài vẫn c̣n hợp thời và khẩn trương thậm chí cho tới ngày hôm
nay. Tín hữu, bởi được phép rửa tháp nhập họ với Chúa Kitô, được kêu gọi gắn bó
với Chúa bằng mối liên hệ liên lỉ và trọng yếu này. Họ được kêu gọi trở nên
thánh hảo và cộng tác vào việc cứu độ nhân loại.
2. “Chúa là Thiên Chúa đem con người d8ạt vào trong vườn Địa Đường để vun xới và
trông coi vườn” (Gen 2:15). Sách Khởi Nguyên, như chúng ta đă nghe ở bài đọc thứ
nhất, nhắc nhở chúng ta rằng Đấng Hóa Công đă trao phó trái đất cho con người,
để “vun xới” nó cũng như để “trông coi” nó. Các tín hữu hoạt động ở những lănh
vực khác nhau trên thế giới là góp phần vào việc hiện thực dự án thần linh phổ
quát này. Việc làm và bất cứ sinh hoạt nào khác, được thi hành với ân sủng trợ
giúp, đều trở nên phương tiện cho việc thánh hóa hằng ngày.
Thánh Josemaría Escrivá thường nói rằng: “Đời sống b́nh thường của một Kitô hữu
sống đức tin, khi làm việc cũng như nghỉ ngơi, khi cầu nguyện hay nằm ngủ, lúc
nào cũng là một đời sống có Thiên Chúa hiện diện” (Meditations, 3/3/1954). Quan
niệm về cuộc sống siêu nhiên này mở ra một chân trời hết sức sáng ngời của quan
điểm cứu độ, bởi v́, cho dù trong môi trường của những biến cố trần gian b́nh
thường xẩy ra đều đều không ǵ thay đổi đi nữa, Thiên Chúa cũng ở bên chúng ta
và chúng ta có thể cộng tác vào dự án cứu độ của Ngài. Bởi vậy, người ta mới
càng dễ hiểu về những ǵ đă được Công Đồng Chung Vaticanô II xác nhận, đó là “sứ
điệp Kitô giáo không đưa con người ra khỏi việc kiến tạo thế giới […], những bắt
họ càng phải có trách nhiệm dấn thân vào việc này nữa”. ("Gaudium et Spes," 34).
3. Việc nâng thế gian lên Thiên Chúa và biến đổi nó tận bên trong là ở chỗ này,
đó là lư tưởng được vị sáng lập thánh thiện này muốn nói với anh chị em, những
người hôm nay đang hân hoan v́ ngài được tôn vinh lên bàn thờ. Ngài nhắc nhở
chúng ta về nhu cầu không được để cho ḿnh khiếp sợ trước nền văn hóa vật chất
là những ǵ đe dọa làm mất đi cái căn tính chân thực nhât của thành phần làm môn
đệ Chúa Kitô. Ngài thích lập lại một cách cương quyết là đức tin Kitô giáo ngược
lại với khuynh hướng cầu an và tŕ trệ nội tâm.
Theo chân của ngài, hăy truyền bá trong xă hội, không phân biệt chủng tộc, giai
cấp, văn hóa hay tuổi tác, cái tâm thức là chúng ta được kêu gọi nên thánh.
Trước hết, anh chị em hăy bắt ḿnh phải nên thánh, bằng việc vun trồng một lối
sống khiêm nhượng và phục vụ của Phúc Aâm, phó ḿnh cho Chúa Quan Pḥng và liên
lỉ lắng nghe tiếng của Thần Linh. Có như thế, anh chị em mới “là muối đất” (x Mt
5:13) và “ánh sáng của các con mới chiếu sáng trước mặt người ta, để họ thấy
được các việc lành các con làm mà tôn vinh Cha các con ở trên trời” (ibid.
5:16).
4. Dĩ nhiên sẽ không không thể nào tránh khỏi những hiểu lầm và khó khăn xẩy ra
cho những ai cố gắng v́ Phúc Aâm trung thành phục vụ. Chúa thanh tẩy và khuôn
đúc tất cả những ai Ngài kêu gọi theo Người bằng quyền lực nhiệm mầu của thập
giá; thế nhưng, nơi thập giá này, vị thánh mới đă lập lại rằng, chúng ta t́m
được ánh sáng, an b́nh và niềm vui: “Lux in Cruce, Requies in Cruce, Gaudium in
Cruce!”.
Ngay từ ngày 7/8/1945, trong khi cử hành Thánh Lễ, những lời của Chúa Giêsu âm
vang trong hồn của ngài: “Phần Tôi, khi được treo lên khỏi đất, Tôi sẽ kéo tất
cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32), Thánh Josemaría Escrivá đă hiểu rơ hơn
nữa sứ vụ của thành phần lănh nhận phép rửa là ở chỗ nâng cao thập giá của Chúa
Kitô trên tất cả mọi thực tại của loài người, và nội tâm của ngài cảm thấy phấn
khởi về ơn gọi dấn thân truyền bá phúc âm hóa tất cả mọi môi trường. Thế là,
không chần chừ, ngài đă chấp nhận lời Chúa Giêsu mời gọi Tông Đồ Phêrô, lời mời
gọi đă được vang vọng ở quảng trường này ít lâu trước đây, đó là “Duc in altum!”
Hăy ra chỗ nước sâu. Ngài đă truyền đạt lời mời gọi này cho tất cả mọi gia đ́nh
thiêng liêng của ḿnh, hầu họ có thể cống hiến cho Giáo Hội một đóng góp giá trị
cho mối hiệp thông và việc tông đồ. Lời mời gọi này hôm nay đây cũng được gửi
đến tất cả chúng ta nữa. Vị Sư Phụ Thần Linh bảo chúng ta rằng “Hăy ra chỗ nước
sâu mà thả lưới bắt cá” (Lk 5:4).
5. Tuy nhiên, để có thể hoàn tất một sứ vụ đ̣i hỏi như thế, cần phải liên lỉ lớn
lên trong đời sống nội tâm bằng việc nguyện cầu. Thánh Josemaría là một vị thày
trong việc thực hành cầu nguyện, một thực hành được ngài coi là một thứ “khí
giới” phi thường để cứu chuộc thế gian. Ngài hằng khuyến dụ là: “Trước hết là
cầu nguyện; sau đó đến đền tội; thứ ba, thật sự là thứ ba, mới là hành động”
(“The Way”, số 82). Đó không phải là một cái ǵ ngược đời mà là một sự thật vĩnh
tại, đó là vấn đề sinh hoa kết trái của việc tông đồ trước hết là ở nơi việc cầu
nguyện cũng như ở đời sống liên lỉ thiết tha với bí tích. Bí mật thực sự của sự
thánh thiện cũng như của sự thành công của các thánh nhân.
Anh chị em thân mến, xin Chúa giúp cho anh chị em biết chấp nhận cái di sản thật
là khổ hạnh và truyền giáo này. Xin Mẹ Maria nâng đỡ anh chị em, Đấng được vị
thánh sáng lập kêu cầu là “Spes Nostra, Sedes Sapientiae, Ancilla Domini!”
Xin Đức Mẹ làm cho hết mọi người trở thành chứng nhân của Phúc Âm, sẵn sàng
quảng đại đóng góp ở mọi nơi để xây dựng Vương Quốc của Chúa Kitô. Chớ ǵ gương
mẫu và giáo huấn của Thánh Josemaría là một phấn khích cho chúng ta, để khi đến
cuối cuộc hành tŕnh trần gian, chúng ta cũng được tham phần gia sản hồng ân
thiên quốc. Ở đó, cùng với các thiên thần và tất cả các thánh, chúng ta chiêm
ngưỡng dung nhan Thiên Chúa và ca khen vinh hiển của Ngài đến muôn đời!
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ bản tiếng Anh
của Zenit phổ biến ngày 6/10/2002, tài liệu nguyên ngữ bằng tiếng Tây Ban Nha của Ṭa Thánh)
Tiểu Sử
Thánh Josemaría Escrivá vào đời tại Barbastro, Tây Ban Nha,
ngày 9/1/1902, là một trong 6 người con của ông José Escrivá và bà Maria Dolores
Albás, những vị cha mẹ đạo đức tốt lành. Ngài được rửa tội ngày 13/1 cùng năm,
và được cha mẹ giáo dục, đặc biệt bằng gương sáng, thi hành những nhân đức Kitô
giáo, như yêu chuộng việc xi6ng năng xưng tội và rước lễ, tin tưởng nguyện cầu,
tôn sùng Đức Mẹ, giúp đỡ những người bần cùng thiếu thốn.
Ngài cảm thấy được tác động vào mùa đông năm 1917-1918 và quyết định làm linh
mục để nhờ đó, theo Ngài bấy giờ, Ngài có thể dễ dàng làm trọn ư Chúa hơn. Bố
Ngài đột ngột chết ngoài dự tưởng ngày 27/11/1924, và chỉ sau đó ít tháng, tức
vào ngày 28/3/1925, Ngài đă được thụ phong linh mục. Ngài thành lập tổ chức Opus
Dei ngày 2/10/1928, sau khi được ơn soi sáng trong một tuần pḥng liên quan đến
sứ vụ Ngài cảm thấy như Chúa muốn dùng Ngài để mở ra trong Giáo Hội một con
đường sống ơn gọi mới bằng việc truyền bá cách t́m kiếm đức thánh thiện và thực
hành việc tông đồ qua việc thánh hóa thường nhật vụ giữa thế gian mà không cần
phải thay đổi vị thế của ḿnh. Ngày 14/2/1930, Ngài được ơn soi động thành lập
Opus Dei cho cả phái nữ nữa. Tổ chức Opus Dei đă được Ṭa Thánh công nhận năm
1950 và sau đó vào năm 1982 đă được Ṭa Thánh thiết lập thành một Personal
Prelature (tương đương như một giáo quản riêng mà theo Niên Giám Ṭa Thánh năm
1989 tổ chức này có 74.401 giáo dân đủ mọi thành phần, 1.310 linh mục và 347
chủng sinh).
Năm 1933, Ngài mở Trung Tâm Đại Học, đó là Học Viện DYA, v́ Ngài thâm tín rằng,
thế giới kiến thức và văn hóa của con người là chủ yếu cho việc truyền bá phúc
âm hóa toàn thể xă hội. Năm 1934, Ngài phát hành cuốn “Những Ưu Tư Thiêng Liêng”,
ấn bản đầu tiên của cuốn “Đạo Lộ”, một tác phẩm đă được in 372 lần, bằng 44 thứ
tiếng. Ngoài ra, Ngài cũng viết một số những tác phẩm đạo đức khác được xuất bản
cả hằng triệu cuốn, những cuốn mang tựa đề như Kinh Mân Côi, Đối Thoại Với Đức
Ông Escrivá, Chúa Kitô Đang Đi Ngang Qua, Các Thân Hữu Của Thiên Chúa, Ḷng Mến
Yêu Giáo Hội, Đường Thánh Giá, Luống Cầy, Ḷ Rèn.
Ngày 26/6/1975, Ngài đă chết vào buổi trưa tại pḥng làm việc của ḿnh trước
tượng ảnh Đức Mẹ v́ chứng nghẹt tim. Bấy giờ tổ chức Opus Dei đă có mặt ở khắp
Năm Châu, với 60 ngàn phần tử thuộc 80 quốc tịch khác nhau. Đức Gioan Phaolô II
đă tuyên phong chân phước cho Ngài ngày 17/5/1992.