THÁNH MARIA DE MATTIAS

(1805 - 1866)

Maria De Mattias (1805-1866)

"Thánh Maria De Mattias được mầu nhiệm Thập Gíá sâu xa chi phối. Nơi Ngài, t́nh yêu đối với Chúa Giêsu tử giá được chuyển thành ḷng thương các linh hồn và ,ột cuộc dấn thân khiêm tốn cho anh chị em, cho 'tha nhân yêu dấu', như Ngài thích nói như thế".

(Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, bài giảng phong thánh 18/5/2003)


Thánh Maria De Mattias vào đời ngày 4/2/1805 ở Vallecorsa, một tỉnh ở miền cực nam của Quốc Gia Giáo Hoàng, trong khu vực địa dư Frosinone. Gia đ́nh của Ngài không phải là không giầu có và học thức, cho dù bấy giờ phụ nữ bị cấm không được học, hay không có đức tin sâu xa.

Nhờ trao đổi với cha của ḿnh, Ngài đă học biết và thấm nhuần chẳng những các chân lư đức tin mà c̣n cả những biến cố và những nhân vật trong Sách Thánh nữa. Cha của thánh nhân đọc Thánh Kinh cho Ngài khi Ngài c̣n rất nhỏ, và Ngài đă phát triển một t́nh yêu mạnh mẽ đối với Chúa Giêsu, Con Chiên bị hy tế v́ phần rỗi loài người. Tất cả những điều này xẩy ra khi tỉnh Vallecorsa và các khu vực lân cận trải qua một giai đoạn (1810-1825) trộm cướp thê thảm. Nơi tâm hồn của thánh nhân thật sự nẩy lên một sự so sánh giữa máu con người đổ ra v́ hận thù và trả thù với máu của Chúa Kitô đổ ra v́ yêu thương, một thứ Máu cứu độ.

Theo giai cấp xă hội của ḿnh, không được giáo dục chính thức và không giáo tiếp ǵ với bên ngoài, thánh nhân đă sống cuộc đời thơ ấu và dậy th́ khép kín, chỉ để ư tới nhan sắc của ḿnh mà thôi. Thế nhưng, khi lên 16 hay 17 tuổi, thánh nhân bắt đầu t́m kiếm ư nghĩa cuộc đời, và cảm thấy cần phải có một t́nh yêu vô biên. Để rồi, cũng qua việc trao đổi với người cha, vị được thánh nhân bộc lộ cái tăm tối nội tâm của ḿnh, và qua việc thánh nhân xin Đức Mẹ 'ban ơn soi sáng', mà Thiên Chúa đă cho Ngài cảm nghiệm được cái đẹp của t́nh yêu Ngài một cách 'diệu huyền'. T́nh yêu ấy được bộc lộ hoàn toàn nơi Chúa Giêsu Tử Giá, nơi Chúa Kitô đổ hết Máu ḿnh ra.

Cảm nghiệm này là nguồn mạch, là sức mạnh và là động lực thúc đẩy thánh nhân đi khắp các nẻo đường Ư Quốc "để làm cho mọi người biết đến t́nh yêu êm ái của Cha Trên Trời" như Ngài nói, hay của "Giêsu T́nh Yêu Tử Giá". Ngài quan niệm rằng việc canh tân xă hội được bắt nguồn từ con tim con người, và một con người được biến đổi khi họ hiểu được mỗi một người cao quí biết bao trước nhan Thiên Chúa, mỗi một người được yêu thương biết bao... Chúa Giêsu đă đổ hết Máu của Người ra để cứu độ nhân loại.

Với cảm nghiệm ấy, thánh nhân đă hết sức dẫn tất cả mọi người, trẻ cũng như già, đến chỗ khám phá ra những ǵ đă được mạc khải cho Ngài và biến đổi Ngài. Ngài cũng cảm nghiệm thấy rằng việc biến đổi này đều có thể xẩy ra cho tất cả mọi người khi mà, vào năm 1822, tức khi Ngài mới 17 tuổi, linh mục Gaspar Del Bufalo (nay đă là "Thánh"), đến giảng pḥng ở Vallecorsa. Thánh nhân đă thấy dân chúng trong thành thay đổi. Từ lúc đó trong tâm can của thánh nhân cảm thấy ước vọng muốn làm những ǵ Cha Gasper đang làm bấy giờ.

Theo sự hướng dẫn của những đồng bạn của Thánh Gaspar, Cha Giovanni Merlini (nay là Chân Phước), thánh nhân đă lập ở Acuto (Frosinone) Hội Ḍng Chị Em Tôn Thờ Máu Chúa Kitô vào ngày 4/3/1834, năm ngài 29 tuổi. Ngài đă được Giám Mục địa phương là Giuseppe Maria Lais giáo phận Anagni kêu gọi phụ trách dạy dỗ các em gái trẻ. Ngài đă tự học đọc và viết.

Tuy nhiên, một con người ôm ấp giấc mộng canh tân xă hội và thế giới không thể chỉ phục vụ ở học đường mà thôi. Ngài c̣n qui tụ các bà mẹ và các trẻ nam lại để dạy giáo lư cho họ, để thúc giục họ yêu mến Chúa Giêsu và để dạy họ sống cuộc sống Kitô hữu theo bậc sống của họ. Những người nam, thành phần Ngài không thể nói chuyện theo tục lệ bấy giờ, tự động đến nghe Ngài, cho dù âm thầm kín đáo. Thành phần mục đồng, bị bỏ bê, xin Ngài chỉ giáo cho, cho dù vào lúc chiều tối. Dân chúng kéo đến nghe Ngài chỉ dẫn.

Thế là thánh nhân, từ t́nh trạng là một đứa con gái e thẹn và khép kín, đă trở thành một nhà giảng thuyết lôi cuốn các em gái nhỏ, người lớn, thành phần quê mùa và học thức, giáo dân lẫn giáo sĩ. Chính là v́, khi nói về Chúa Giêsu và những mầu nhiệm đức tin, Ngài đă nói như thể Ngài đă đích thân thấy được những thực tại ấy. Ước muốn nung nấu của thánh nhân là "không một giọt Máu Thần Linh nào bị mất đi"; mà phải tiến tới tất cả mọi tội nhân để thanh tẩy họ, nhờ đó, được rửa trong ǵong sông thương xót, họ sẽ tái khám phá ra con đường chân chính dẫn đến ḥa b́nh và hiệp nhất nơi con người.

Ḷng nhiệt thành này đă thu hút nhiều phụ nữ trẻ trung, và qua họ, thánh nhân đă mở khoảng 70 cộng đồng trong đời của Ngài, trong đó có 3 cộng đồng ở Đức và Anh. Hầu hết đều ở những tỉnh lẻ ở Trung Ư, trừ ở Rôma, nơi Ngài đă được Đức Piô IX kêu gọi thành lập Tiếp Viện Thánh Luigi và học đường ở Civitavecchia.

Cuộc đời của thánh nhân là cuộc đời sống với một ước vọng duy nhất để "làm hài ḷng Chúa Giêsu", Đấng đáp cướp đoạt trái tim của Ngài từ hồi c̣n trẻ, và là một cuộc đời sống trong việc hân hoan dấn thân để cứu 'tha nhân yêu dấu' khỏi bị vô tri về mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa đồi với nhân loại. Tất cả những điều này khiến thánh nhân vận dụng tất cả nghị lực của ḿnh; không chịu thua khi gặp những bất măn hay khó khăn; bao giờ cũng hoạt động bằng t́nh yêu mến Giáo Hội và niềm hiệp thông sâu xa với Giáo Hội địa phương và hoàn vũ.

Thánh nhân qua đời ở Rôma ngày 20/8/1866 và được chôn táng ở nghĩa trang Verano theo ư của Đức Piô IX, Vị chọn mồ cho thánh nhân và cho khắc câu của tiên tri Êzêkiên: "Hỡi xương khô, hăy nghe lời Chúa". Đức Piô XII đă phong chân phước cho thánh nhân ngày 1/10/1950.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, chuyển dịch từ màn điện toán của Ṭa Thánh Vatican