Thánh giáo phụ John Chrysostom

Thứ Tư 19+26/9/2007, Bài Giáo Lư 50 + 51 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

Anh Chị Em thân mến, 

Năm nay là năm kỷ niệm 16 thế kỷ qua đời của Thánh Gioan Kim Khẩu (407-2007).  Có thể nói rằng Thánh Gioan Thành Antiôkia, biệt danh “Chrystostom” tức “kim khẩu – golden-mouthed”, v́ sự lợi khẩu của ngài, cũng c̣n sống cho tới nay nhờ bởi các tác phẩm của ngài. Một sao chép viên ẩn danh đă ghi lại bằng giấy tờ rằng “những tác phẩm ấy lan khắp hoàn cầu như những tia chớp vậy”.  

Các tác phẩm của Thánh Gioan Kim Khẩu cũng giúp cho chúng ta có thể, như chúng đă làm nơi tín hữu vào thời của ngài, thành phần trong những lần ngài thường bị phát lưu vắng bóng đă sống bằng sách vở của ngài. Đó là những ǵ chính ngài đă đề nghị trong một bức thư khi ngài đang bị lưu đầy (To Olympias, Letter 8, 45). 

Ngài được sinh vào đời khoảng năm 349 ở Antiôkia xứ Syria (ngày nay là Antakya Nam Thổ Nhĩ Kỳ). Ngài đă thi hành thừa tác vụ linh mục của ngài ở đó 11 n ăm cho đến năm 379 là lúc ngài được bổ nhiệm làm Giám Mục thành Constantinople, ngài đă thi hành thừa tác vụ giáo phẩm của ngài ở thủ đô Đế Quốc ấy trước hai cuộc phát lưu của ngài, cuộc này gần sát với cuộc kia – vào năm 403 và 407. Chúng ta hôm nay chỉ nói tới những năm Thánh Gioan Kim Khẩu sống ở Antiôkia.  

Ngài đă bị mất cha ở tuổi c̣n thơ và đă sống với mẹ ngài là bà Anthusa, một người đă làm thấm nhập nơi ngài cái cảm quan nhân bản cao quí và một niềm tin sâu xa Kitô Giáo.  

Sau khi hoàn tất việc học vấn sơ đẳng và cao đẳng lên tới tŕnh độ của các môn học về triết lư và văn chương, ngài đă theo học với bậc thày Libanius, một ngữ học gia ngoại giáo nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Ở học đường, Thánh Gioan đă trở thành một diễn giảng viên lừng lẫy nhất thời hậu cổ Hy Lạp. 

Ngài được rửa tội vào năm 368 và được huấn luyện sống đời giáo hội bởi Đức Giám Mục Meletius, vị đă chỉ định ngài làm phụ phó tế vào năm 371. Biến cố này đánh dấu việc Thánh Gioan Kim Khẩu gia nhập cursus- cuộc hành tŕnh của Giáo Hội. Từ năm 367 đến 371, ngài đă tham dự Asceterius là một loại chủng viện ở Antioch, cùng với một nhóm người nam trẻ trung, trong đó có một số sau này làm Giám Mục, dưới sự dẫn dắt của nhà dẫn giải thánh kinh Diodore ở Tarsus, vị đă khơi động Thánh Gioan Kim Khẩu bắt tay vào việc dẫn giải văn chương và văn phạm mang đặc tính của truyền thống Antioch.

Bấy giờ, trong ṿng 4 năm, ngài đă sống âm thầm với các vị ẩn tu ở Mount Silpius gần đó. Ngài đă kéo dài cuộc sống âm thầm này thêm hai năm nữa, sống một ḿnh ở một cái động theo sự hướng dẫn của một “vị ẩn sĩ già”. Trong thời gian đó, ngài đă hoàn toàn giành giờ suy niệm về “những lề luật của Chúa Kitô”, các Phúc Âm và những Thư của Thánh Phaolô. Lâm bệnh, ngài cảm thấy không thể nào tự lo cho ḿnh nếu không được giúp đỡ, nên ngài đă trở về với cộng đồng Kitô hữu ở Antioch (cf. Palladius, Dialogue on the Life of St John Chrysostom, 5).

 

Tiểu sử gia của ngài giải thích rằng Chúa đă ra tay can thiệp bằng một chứng bệnh đúng lúc để Thánh Gioan Kim Khẩu có thể theo đuổi ơn gọi thực sự của ngài. Thật vậy, chính ngài về sau đă viết rằng nếu ngài cần phải chọn lựa giữa những trục trặc rắc rối của việc quản trị Giáo Hội và viiệc tĩnh lặng của đời sống đan tu th́ ngài thích việc mục vụ hơn cả ngàn lần (cf. On the Priesthood, 6, 7): Chính v́ vậy mà Thánh Gioan Kim Khẩu đă cảm thấy ơn gọi của ḿnh.

 

Chính nơi ơn gọi này ngài đă tiến đến khúc quanh quan trọng trong vấn đề ơn gọi của ngài, đó là hoàn toàn trở thành một vị mục tử chăn dắt các linh hồn! Mối thân t́nh sâu xa với Lời Chúa được vun trồng ở những năm sống ẩn sĩ, đă phát triển nơi ngài một thôi thúc bất khả chống cưỡng trong việc rao giảng Phúc Âm, trong việc cống hiến cho người khác những ǵ chính ngài đă lănh nhận trong những tháng năm suy niệm. Lư tưởng truyền giáo bởi thế đă đẩy ngài vào công cuộc mục vụ, đă nung nấu tâm can của ngài.

 

Giữa năm 378 và 379, ngài đă trở về với thành phố ấy. Ngài đă được thụ phong phó tế vào năm  381 và linh mục năm 386, rồi trở thành một nhà giảng thuyết danh tiếng ở các nhà thờ thuộc thành phố này. Ngài đă thực hiện những bài giảng chống lại những người theo bè rối Arian, sau đó là những bài giảng tưởng niệm các vị tử đạo thành Antioch và những lễ quan trọng khác: đó là một giáo huấn quan trọng về niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô cũng như theo ánh sáng các vị Thánh nhân  của ngài.

 

Năm 387 là “năm anh hùng” của ngài, năm được gọi là “khởi nghĩa chống các pho tượng”. Như một dấu hiệu tỏ ra chống lại việc thâu thuế má, dân  chúng đă phá hủy các pho tượng Hoàng Đế. Chính vào những ngày của Mùa Chay này và v́ sợ sự trả thù đang chờ đợi của vị Hoàng Đế mà Thánh Gioan Kim Khẩu đă tung ra 22 Bài Giảng nẩy lửa về Các Pho Tượng, với mục đích kêu gọi thống hối và hoán cải. Việc này đă được tiếp nối bằng một giai đoạn an lành chăm sóc mục vụ (387-397).

 

Thánh Gioan Kim Khẩu thuộc về thành phần các vị Giáo Phụ viết lách nhiều nhất: 17 luận thuyết, trên 700 bài giảng đích thực, những dẫn giải về Phúc Âm Thánh Mathêu và về Thánh Phaolô (những Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, Epheso và Do Thái), và 241 bức thư hiện c̣n lưu giữ. Ngài không phải là một thần học gia loại suy tưởng vậy thôi. 

 

Tuy nhiên, ngài đă truyền đạt truyền thống và giáo lư khả tín của Giáo Hội trong một thời đại của những cuộc tranh luận về thần học được làm bừng lên trước hết bởi bè rối Arian, nói cách khác, bởi việc chối bỏ thiên tính của Chúa Kitô. Bởi thế, ngài là chứng nhân trung thực của việc phát triển tín điều Giáo Hội đạt được từ thế kỷ thứ tư sang thế kỷ thứ năm.

 

Thần học của ngài hoàn toàn là một thứ thần học về mục vụ, một thứ thần học liên lỉ quan tâm tới việc nhất trí giữa tư tưởng được biểu lộ nơi ngôn từ với cảm nghiệm sống. Đặc biệt v́ vậy mà nó đă trở thành đề tài chính cho những bài giáo lư rất hay được ngài dùng để dọn ḷng cho thành phần dự ṭng lănh nhận Phép Rửa.

 

Gần đến lúc qua đời, ngài đă viết rằng giá trị của con người là ở chỗ “hiểu biết xác thực tín lư đích thật và ở  cuộc sống trung trực” (Letter from Exile). Cả hai điều này, hiểu biết sự thật và đời sống trung thực, đi liền với nhau: ở chỗ, hiểu biết cần phải thể hiện trong đời sống. Tất cả những bài thuyết giảng của ngài nhắm đến việc phát triển nơi tín hữu việc sử dụng trí thông minh, sử dụng trí khôn thực sự, để hiểu biết và mang ra thực hành những đ̣i hỏi về luân lư và tu đức của đức tin.

 

Thánh Gioan Kim Khẩu tỏ ra ân cần kèm theo các bài viết của ngài cả việc phát triển trọn vẹn của con người nơi những khía cạnh về thể lư, lư trí và tôn giáo của họ. Những giai đoạn tăng trưởng khác nhau của họ được so sánh với nhiều biển cả trong một đại dương bao la: “Biển cả đầu tiên của các biển cả này là tầm mức trẻ con” (Homily, 81, 5 on Matthew's Gospel).

 

Thật vậy, “chính ở lứa tuổi ban đầu này mà các hướng chiều về tính mê nết xấu hay nhân đức đạo hạnh bày tỏ”. Bởi thế, lề luật của Thiên Chúa cần phải được in ấn trên linh hồn từ ban đầu “như trên một cái bàn bằng sáp ong” (Homily 3, 1 on John's Gospel): Thực sự th́ đây là một thời tuổi rất quan trọng. Chúng ta cần phải nhớ rằng những sự hướng dẫn cao quí cống hiến cho con người một nhăn quan xứng hợp về đời sống thực sự thấm  nhập vào con người trong giai đoạn đầu đời này thật là quan trọng biết bao.

 

Bởi thế, Thánh Gioan Kim Khẩu đă khuyên bảo rằng: “Từ tuổi thơ ấu nhất, hăy trang bị cho trẻ em những thứ khí giới thiêng liêng và dạy cho chúng làm Dấu Thánh Giá trên trán bằng bàn tay của chúng” (Homily, 12, 7 on First Corinthians).

 

 

Thế rồi tới giai đoạn dạy th́ và thanh niên: “Sau thời thơ ấu là biển cả dạy th́, thời xẩy ra những cơn gió mạnh …, v́ đam mê nhục dục … lớn lên trong chúng ta” (Homily 81, 5 on Matthew's Gospel).

 

 

Sau cùng tới việc đính hôn và thành hôn: “Tuổi trẻ được tiếp nối với tuổi con người chín chắn chấp nhận những dấn thân  cho gia đ́nh: đó là thời t́m kiếm một người vợ” (ibid).

 

 

Ngài đă nhắc lại các m ục đích của hôn nhân, làm cho chúng phong phú – đề cập tới nhân đức và tính chất ôn ḥa – bằng một thứ kết cấu phong phú về những liên hệ cá thể. Bởi thế, những đôi phối ngẫu được sửa soạn thích đáng ngăn chặn đường tiến tới chỗ ly dị: hết mọi sự xẩy ra trong hân hoan và con cái được giáo dục sống đức hạnh. Bởi vậy, khi đứa con đầu tiên được sinh ra th́ em “giống như là một chiếc cầu; cả ba trở nên một xương thịt, v́ đứa con liên kết hai phần lại” (Homily 12, 5 on the Letter to the Colossians), và cả 3 tạo nên “một gia đ́nh, một Giáo Hội thu nhỏ” (Homily 20, 6 on the Letter to the Ephesians).

 

 

Việc giảng dạy của Thánh Gioan Kim Khẩu t hường xẩy ra trong phụng vụ, “nơi” cộng đồng được  xây dựng bằng Lời Chúa và Thánh Thể. Việc tụ họp ở đó cho thấy một Giáo Hội duy nhất (Homily 8, 7 on the Letter to the Romans), cùng Lời Chúa được ngỏ cho tất cả mọi đời ở khắp mọi nơi (Homily 24, 2 on First Corinthians), và việc Hiệp Lễ trở thành một dấu hiệu hiệp nhất hiệu nghiệm (Homily 32, 7 on Matthew's Gospel).

Dự án mục vụ của ngài được liên kết với đời sống của Giáo Hội, trong đó, thành phần tín hữu giáo dân nhờ Phép Rửa lănh nhận sứ vụ tư tế, vương giả và ngôn sứ. Ngài đă nói với thành phần tín hữu giáo dân rằng: “Phép Rửa cũng sẽ làm cho anh chị em trở thành vua chúc, tư tế và ngôn sứ” (Homily 3, 5 on Second Corinthians).

 

 

Từ đó đă xuất phát nhiệm vụ truyền giáo nồng cốt, v́ mỗi một người có trách nhiệm ở một mức độ nào đó đối với phần rỗi của kẻ khác: “Đó là nguyên tắc cho đời sống xă hội của chúng ta… không phải chỉ liên quan tới bản thân chúng ta mà thôi” (Homily 9, 2 on Genesis). Điều này xẩy ra giữa hai cực, đó là Giáo Hội lớn lao và “Giáo Hội thu nhỏ” là gia đ́nh, trong một mối liên hệ hỗ tương.

 

 

Anh chị em thân mến, như anh chị em có thể thấy được bài học của Thánh Gioan Kim Khẩu về sự hiện diện Kitô giáo chân thực của thành phần tín hữu giáo dân trong gia đ́nh cũng như xă hội vẫn c̣n là những ǵ hợp thời cả cho đến ngày nay. Chúng ta hăy cầu xin Chúa hăy làm cho chúng ta dễ dạy trước những giáo huấn của bậc đại Sư của đức tin này. 

 

Anh Chị Em thân mến,

Chúng ta tiếp tục việc suy niệm của chúng ta hôm nay về Thánh Gioan Kim Khẩu. Sau khi ngài sống ở Antioch, vào năm 397 ngài được bổ nhiệm làm giám mục Constantinople, thủ đô của Đế Quốc Rôma Đông Phương. Ngay từ ban đầu, ngài đă đề ra việc canh tân  Giáo Hội của ngài, ở chỗ tính cách khổ hạnh của ṭa giám mục phải trở nên mẫu gương cho hết mọi người – giáo sĩ, quả phụ, đan sĩ, thành phần triều đ́nh và giầu sang phú quí. Tiếc thay, nhiều  người trong họ, cảm thấy bị ám chỉ bởi những quyết định của ngài như thế, đă ĺa xa ngài.

V́ chú trọng tới người nghèo, Thánh Gioan cũng được gọi là “người bố thí”. Thật vậy, quản trị một cách thận trọng, ngài đă có thể thiết lập những tổ chức bác ái là những tổ chức đă được cảm mến rất nhiều. Những sáng kiến của ngài ở những lănh vực khác nhau đă khiến cho một số người thấy ngài n hư là một đối phương nguy hại. Tuy nhiên, là một mục tử nhân  lành, ngài đă đối xử với hết mọi người một cách nhân ái theo t́nh phụ tử. Ngài đặc biệt tỏ ra nhân  ái đối với nữ giới và chú trọng riêng tới đời sống hôn nhân gia đ́nh. Ngài đă mời gọi tín hữu tham dự vào đời sống phụng vụ được ngài làm cho nên uy nghi và thu hút bởi thiên tài sáng tạo của ngài.

Cho dù tốt lành nhân ái như vậy, cuộc đời của ngài cũng không được bằng yên thanh thản. Là mục tử ở thủ đô của một đế quốc, ngài thấy ḿnh thường bị dính dáng tới những mưu đồ chính trị, bởi mối liên hệ liên tục giữa ngài với các thẩm quyền và cơ cấu dân sự. Thêm vào đó, về phương diện giáo hội, v́ ngài đă truất phế 6 vị giám mục vào năm 401 ở Á Châu được tuyển chọn cách bất xứng, ngài đă bị tố cáo là vượt quá quyền hạn của ngài, do đó, đă dễ trở thành mục tiêu của những cuộc tấn công.

 

Một lư do khác gây ra những cuộc tấn công ngài đó là sự hiện diện ở Constantinople một số đan sĩ Ai Cập bị tuyệt thông bởi Thượng Phụ Theophilus ở Alexandria. T́nh trạng bất đồng sôi nổi được bắt đầu bùng lên khi Thánh Gioan Kim Khẩu lên  tiếng phê b́nh Nữ Hoàng Eudoxia và thành phần nịnh thần của bà, thành phần đă đáp lại ngài bằng việc làm mất uy tín của ngài và xỉ nhục ngài. Bởi thế ngài đă b ị truất phế ở hội nghị giám mục được triệu tập bởi Thượng Phụ Theo philus năm  403, và bị án lưu đầy một thời gian ngắn.

 

Sau khi trở lại, ngài đă gây ra nhiều hận thù hơn nữa khi ngài tỏ ra chống lại những cuộc hội lễ tôn vinh nữ hoàng – những cuộc hội lễ bị vị giám mục này coi là những thứ hội lễ phí phạm của dân ngoại – cũng như khi ngài trục xuất các v ị linh m ục cử hành các thứ phép rửa vào thời điểm Vọng Phục Sinh năm 404. Bởi vậy mới bắt đầu xẩy ra cuộc bách hại Thánh Gioan Kim Khẩu cùng với thành phần môn đồ của ngài, được gọi là Johannites. 

 

Thánh Gioan Kim Khẩu đă giải thích những sự kiện ấy trong một bức thư gửi cho Vị Giám Mục Rôma là Đức Innocent I. Thế nhưng đă quá muộn rồi. Vào năm 406 ngài đă bị đi đầy một lần nữa, lần này đến Cucusa ở Armenia. Đức Giáo Hoàng tin rằng ngài vô tội, thế nhưng Đức Giáo Hoàng không có quyền năng cứu giúp ngài. Một công đồng, được Rôma triệu tập để b́nh định hai phần  của đế quốc này và giữa hai Giáo Hội đôi bên, đă không thể xẩy ra.

 

Cuộc hành tŕnh khó khăn từ Cucusa đến Pythius, một đích điểm không bao giờ đạt tới, có ư là để cản trở thành phần tín hữu viếng thăm ngài và đập vỡ việc chống kháng của vị giáo phẩm hết hơi cùng sức này: bản án lưu đầy thực sự là một bản án tử h́nh vậy!

 

Nhiều bức thư từ chốn lưu đầy đầy cảm kích. Thánh Gioan Kim Khẩu nói về những mối quan tâm mục vụ của ngài nhuốm sầu thương đối với những cuộc bách hại mà thành phần môn đồ của ngài phải chịu đựng. Chặng đường tiến đến cử tử của ngài được kết thúc tại Comana ở Pontus.  Ở đó, Thánh Gioan Kim Khẩu hấp hối được mang tới nhà thờ của vị tử đạo Basiliscus, nơi ngài đă phó linh hồn ḿnh cho Thiên Chúa và đă được an táng, tử đạo bên cạnh tử đạo (Palladio, “Life” 119). Hôm đó là ngày 14/9/407, Lễ Tôn Kính Thánh Giá. 

 

Việc ḥa giải xẩy ra vào năm 438 với Theodosius II.  C ác hài tích của vị giám mục thánh này, được đặt ở Nhà Thờ Chư Vị Tông Đồ ở Constantinople, đă được đưa về Rôma vào năm 1204, đến đền thờ Constantinian ngày xưa, nay ở trong Nguyện Đường của Ca Đoàn Chư Giáo Sĩ Đền Thờ Thánh Phêrô.

 

Vào ngày 24/8/2004, một phần lớn của các hài tích này đă được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tặng cho Đức Thượng Phụ Bartholomew I ở Constantinople. Phụng vụ lễ nhớ vị thánh này được cử hành vào ngày 13/9. Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đă tuyên bố ngài là vị thánh quan thày của Công Đồng Chung Vaticanô II.

 

Thánh Gioan Kim Khẩu được cho rằng, khi ngài ngự trên ngai Tân Rôma tức Constantinople, th́ Thiên Chúa tỏ ngài ra như là một Phaolô thứ hai, một tiến sĩ của hoàn vũ. Thế nhưng, thực tế cho thấy, nơi Thánh Gioan Kim Khẩu, có một mối hiệp nhất chính yếu giữa tư tưởng và hàn h động, cả ở Antioch cũng như ở Constantinople. Chỉ có vai tṛ của ngài và trường hợp của ngài là thay đổi thôi.

 

Suy niệm về tám công việc được Thiên Chúa thực hiện trong 6 ngày, Thánh Gioan Kim Khẩu, trong bài dẫn giải của ḿnh về Sách Khởi Nguyên, muốn dẫn tín hữu từ việc tạo thành đến Đấng tạo Hóa. Ngài nói: “Thật là hết sức tốt lành khi biết rằng tạo vật là ǵ và Hóa Công là chi”. Ngài chứng tỏ cho chúng ta thấy vẻ đẹp của việc tạo thành và tính cách thấu suốt của Thiên Chúa nơi việc tạo dựng của Người, một việc tạo dựng v́ thế trở nên một thứ “cầu thang” để lên cùng Thiên Chúa, để nhận biết Người.

 

Thế nhưng, ngài đă thêm bước thứ hai vào bước thứ nhất ấy, đó là Vị Thiên Chúa hóa công cũng là Vị Thiên Chúa chiếu cố hạ ḿnh (“synkatabasis”). Chúng ta yếu kém trong việc chúng ta “đi lên”; đôi mắt của chúng ta yếu đuối. Và v́ thế mà Thiên Chúa đă trở thành Vị Thiên Chúa chiếu cố hạ ḿnh, Đấng sai một bức thư cho con người sa ngă và xa lạ, đó là Thánh Kinh. Nhờ đó, việc tạo dựng và Thánh Kinh bổ khuyết lẫn cho nhau.

 

Trong ánh sáng của Thánh Kinh th́ bức thư được Thiên Chúa gửi cho chúng ta, chúng ta có thể giải mă việc tạo thành. Thiên Chúa được gọi là “người cha dịu dàng” (philostorgios”) (ibid.), là lương y tâm hồn (Homily 40:3 "On Genesis"), là người mẹ (ibid) và là người bạn cảm mến ("On Providence" 8:11-12).

 

Sau bước thứ nhất là việc tạo thành như một “chiếc cầu thang” dẫn đến  với Thiên Chúa – và bước thứ hai là việc chiếu cố hạ ḿnh của Thiên Chúa qua bức thư Ngài đă gửi cho chúng ta là Thánh Kinh, là bước thứ ba. Thiên Chúa chẳng những gửi một bức thư, ở chỗ chính Ngài đă hạ giáng, đă nhập thể, Người thực sự trở nên  “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, là an hem của chúng ta cho đến chết trên thập tự giá.   

 

Thêm vào 3 bước này – bước Thiên Chúa hữu h́nh nơi việc tạo dựng, Thiên Chúa ban cho chúng ta bức thư của Ngài, Thiên Chúa hạ giáng trở nên một người trong chúng ta – là bước thứ tư và lá bước cuối cùng. Trong đời sống và hành động của Kitô hữu, nguyên tắc quan trọng và năng động đó là Thánh Linh (“Pneuma”), Đấng biến đổi các thực tại của thế giới này, Thiên Chúa đến với cuộc hiện hữu của chúng ta nhờ Thánh Linh và biến đổi chúng ta từ bên  trong ḷng của chúng ta.  

 

Trước cái phong này, đó chính là ở Constantinople mà Thánh Gioan Kim Khẩu, nơi bài dẫn giải của ngài về Sách Tông Vụ, lấy mẫu thức của Giáo Hội sơ khai  (Acts 4:32-37)  làm mẫu thức của xă hội, phát triển một thứ “lư tưởng”  v ề xă hội (một “thành phố lư tưởng”).

 

Thật vậy, ngài dự tính cống hiến cho thành phố này một hồn sống và dung nhan Kitô Giáo. Nói cách khác, Thánh Gioan Kim Khẩu đă hiểu được rằng việc bố thí giúp đỡ người nghèo lúc này lúc kia cũng không đủ. Trái lại, cần phải kiến tạo nên một cấu trúc mới, một mô mẫu mới cho xă hội, một mẫu thức theo chiều hướng Tân Ước. Chính thứ xă hội mới này đă được tỏ hiện nơi Giáo Hội sơ khai.

 

Bởi thế, Thánh Gioan Kim Khẩu thực sự trở thành một trong những vị đại Giáo Phụ về giáo huấn xă hội của Giáo Hội: ư nghĩa xưa của Hy Lạp “polis”  được thay thế bằng ư nghĩ mới về một thành phố được tác động bởi niềm tin Kitô Giáo. Thánh Gioan Kim Khẩu đă cùng với Thánh Phaolô khẳng định rằng (x. 1Cor 8:11) tính cách căn bản của cá nhân Kitô hữu, của con người là một ngôi vị, bao gồm cả thành phần  nô lệ và thành phần nghèo khổ. Dự án của ngài đă điều chỉnh quan điểm truyền thống của Hy Lạp về “poilis”, về thành phố, trong đó, một phần lớn dân chúng bị loại trừ khỏi quyền được làm công dân. Trong thành phố Kitô giáo ấy th́ tất cả mọi người đều là anh chị em b́nh quyền.  

 

Tính cách ưu việt của con người cũng là thành quả của sự kiện là thành phố này được kiến tạo trên nền tảng của con người. Trái lại, theo “polis” của người Hy Lạp th́ xứ sở quan trọng hơn cá nhân, thành phần phải hoàn toàn lệ thuộc vào toàn thể thành phố. Như thế, từ Thánh Gioan Kim Khẩu mới bắt đầu có quan điểm về một xă hội được xây dựng bởi lương tâm Kitô Giáo. Và ngài nói với chúng ta rằng “polis” của chúng ta là một thứ “polis” khác, là quê hương của chúng ta trên thiên đ́nh” (Phil 3:20), và quê hương của chúng ta đây, cho dù trên trái đất này, cũng mang lại cho chúng ta tất cả những ǵ là b́nh đẳng, là anh chị em, và buộc chúng ta sống đoàn kết. 

 

Vào cuối đời của ḿnh, từ chốn lưu đầy nơi biên giới nước Armenia, “chốn cực xa trên thế giới này”, Thánh Gioan Kim Khẩu, trở về với bài giảng đầu tiên của ḿnh vào năm 386, một lần nữa đă lập lại đề tài rất thân thương đối với ngài – đó là dự án của Thiên Chúa đối với loài người. Nó là một dự án “khôn tả và khôn lường”, nhưng lại là dự án chắc chắn được Người yêu thương dẫn dắt  (x “On Providence”, 2:6). 

 

Đó là niềm tin tưởng của chúng ta. Cho dù chúng ta không thể giải mă những chi tiết của lịch sử chung riêng, chúng ta cũng biết rằng dự án của Thiên Chúa bao giờ cũng được tác động bởi yêu thương. Bởi thế, bất chấp những khổ đau của ḿnh, Thánh Gioan Kim Khẩu đă tái khẳng định nhận thức là Thiên Chúa yêu thương hết mọi người chúng ta bằng một t́nh yêu vô cùng, nên Người muốn tất cả mọi người được cứu độ.

 

Về phần ḿnh, vị thánh giám mục đă quảng đại cộng tác vào việc cứu độ này, một cách dứt khoát không ngần ngại tiếc xót một sự ǵ, suốt cả cuộc đời của ngài. Thật vậy, ngài đă coi vinh quang của Thiên Chúa là mục đích tối hậu cho việc ngài hiện hữu, một cuộc hiện hữu mà – khi đang hấp hối – ngài đă để lại như là lời trăn chối cuối cùng của ngài là: “Hăy tôn vinh Thiên Chúa về tất cả mọi sự!” (Palladio, “Life” 11).

                

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2007/documents/hf_ben-xvi_aud_20070919_en.html

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/9/2007