THÁNH GREGORY NAZIANZUS

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 8+22/8/2007

Bài Giáo Lư 46 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Thứ Tư vừa rồi tôi đă nói về Thánh Basil, một vị Giáo Phụ của Giáo Hội và là một bậc đại sư dạy đức tin.

 

Hôm nay, tôi xin nói về một người bạn của ngài là Thánh Gregory Nazianzus; như Thánh Basil, vị thánh này cũng là một người bản xứ Cappadocia. Là một thần học gia nổi nang, một vị giảng thuyết và là một vô địch thủ của đức tin Kitô Giáo thuộc thế kỷ thứ 4, ngài nổi tiếng về tài lợi khẩu, và là một thi sĩ, ngài cũng có một tâm hồn tao nhă và nhậy cảm nữa.

 

Thánh Gregory được sinh ra trong một gia đ́nh danh giá khoảng năm 330 sau Chúa Kitô Giáng Sinh, và mẹ của ngài đă hiến dâng ngài cho Thiên Chúa ngày từ khi mới sinh. Sauk hi được giáo dục tại nhà, ngài đă học ở những trường danh tiếng thời ấy: trước hết ngài đến Caesarea ở Cappadocia, nơi ngài đă làm bạn với Thánh Basil, vị Giám Mục tương lai của thành ấy, sau đó tiếp tục sống ở các thủ đô khác thuộc thế giới cổ xưa, như Alexandria, Ai Cập, và nhất là Nhă Điển, nơi ngài lại gặp Thánh Basil một lần nữa (cf. Orationes 43: 14-24; SC 384: 146-180).

 

Khi nhớ lại t́nh bạn này, Thánh Gregorio sau đó đă viết: “Bấy giờ chẳng những tôi cảm thấy hết sức kính mến đại Basil của ḿnh, v́ tính cách nghiêm cẩn về luân lư của ngài cũng như về sự chín chắn cùng khôn ngoan nơi ngôn từ của ngài, mà ngài c̣n thu hút người khác chưa biết ngài để sống như ngài nữa… Ḷng nhiệt thành giống nhau về kiến thức đă thúc đẩy chúng tôi… Đây là việc tranh hùng của chúng tôi, đó là không phải ai nhất mà là ai để cho kẻ khác nhất. Dường như chúng tôi chỉ có một linh hồn trong hai thể xác vậy” (Orationes 43: 16, 20; SC 384: 154-156, 164].

 

Những lời này không nhiều th́ ít phác họa bức chân dung về con người của tâm hồn cao quí ấy. Tuy nhiên, người ta cũng có thể nghĩ rằng làm thế nào con người này, một con người mạnh mẽ bung ra khỏi những giá trị trần gian, cần phải chịu khổ sâu xa v́ những sự thuộc trần gian ấy.

 

Trở về nhà, Thánh Gregory đă lănh nhận Phép Rửa và đă phát triển một khuynh hướng sống đời đan viện, v́ sự cô tịch cũng như việc suy niệm về triết lư lẫn tâm linh là những ǵ thu hút ngài.

 

Chính ngài đă viết: “Đối với tôi không có ǵ trọng đại hơn điều này, đó là câm nín các cảm quan, là vươn lên trên xác thịt của trần gian này, là thu ḿnh lại, không c̣n quan tâm tới những ǵ là phàm nhân hơn là những ǵ triệt để cần thiết; là nói chuyện với bản thân và với Thiên Chúa, là sống một cuộc đời vượt lên trên những ǵ là hữu h́nh; là mang trong linh hồn ḿnh các h́nh ảnh thần linh, nguyên tuyền, không pha trộn với những h́nh thái trần tuục hay lầm lẫn; thực sự trở thành tấm gương tuyệt hảo về Thiên Chúa và về những sự thần linh, và trở thành như vậy mỗi ngày một hơn, nhận lấy ánh sáng từ ánh sáng…; là hoan hưởng, trong niềm hy vọng hiện tại, sự thiện tương lai, và đàm đạo với các thiên thần; là thoát ly trần gian trong khi vẫn tiếp tục ở trong nó, trổi vượt về tinh thần” (Orationes 2: 7; SC 247: 96).

 

Như ngài đă bày tỏ trong cuốn tự thuật của ngài (cf. Carmina [historica] 2: 1, 11, De Vita Sua 340-349; PG 37: 1053), ngài đă thụ phong linh mục một cách lưỡng lự v́ ngài biết rằng sau đó ngài cần phải làm Giám Mục, để coi sóc kẻ khác và những việc làm của họ, bởi thế, không thể nào ch́m sâu vào việc hoàn toàn suy niệm được nữa.

Tuy nhiên, sau đó ngài đă chấp nhận ơn gọi này và hoàn toàn vâng phục chấp nhận thừa tác mục vụ, chấp nhận, như thường xẩy đến cho đời sống của ngài, được Đấng Quan Pḥng mang đến những nơi ngài không muốn đến (x Jn 21:18).

 

Vào năm 371, người bạn Basil của ngài, Giám Mục Caesarea, ngược lại với ước muốn của Gregory, muốn tấn phong ngài làm Giám Mục ở Sasima, một địa phương quan trọng về chiến lược của Cappadocia. Tuy nhiên, v́ những trục trặc khác nhau, ngài đă chẳng bao giờ thực hiện và vẫn ở trong thành Nazianzus.

 

Vào khoảng năm 379, Thánh Gregory được gọi đến Constantinople, thủ đô, để lănh đạo một cộng đồng Công Giáo nhỏ trung thành với Công Đồng Nicea và tin tưởng vào Chúa Ba Ngôi. Trong khi đó đa số gắn bó với bè rối Arius, một bè rối được các vị hoàng đế cho là “đúng đắn về chính trị” và có lợi cho chính trị.

 

Thế là ngài đặt ḿnh vào thân phận của thành phần thiểu số, bị bủa vây bởi hận thù. Ngài đă tung ra năm Bài Thuyết Giảng Thần Học (Orationes 27-31; SC 250: 70-343) trong ngôi Nhà Thờ nhỏ ở Anastasis chính là để bênh vực đức tin về Chúa Ba Ngôi và làm cho niềm tin này được sáng tỏ.

 

Những bài thuyết giảng này đă có tiếng vang v́ tính cách vững vàng về tín lư của ngài và khả năng lập luận của ngài, những ǵ thực sự làm sáng tỏ là đây là một thứ lư lẽ thần linh. Và tính cách sáng ngời nơi h́nh thức của chúng cũng làm cho chúng trở thành hấp dẫn ngày nay nữa.

 

Chính v́ những bài thuyết giảng này mà Thánh Gregory đă có được một biệt hiệu là “Thần Học Gia”.

 

Đó là những ǵ ngài được Giáo Hội Chính Thống gọi: “Nhà Thần Học”. Đó là v́ theo cách thức suy nghĩ của ngài th́ thần học không phải chỉ là suy tư thuần túy nhân loại, hay thậm chí không phải là như thế nữa, chỉ là hoa trái của suy đoán phức tạp, thế nhưng xuất phát từ một đời sống nguyện cầu và thánh đức, từ một cuộc đối thoại kiên tŕ với Thiên Chúa. Và nơi chính cách thức ấy mà ngài mới làm cho thực tại của Thiên Chúa, cho mầu nhiệm của Chúa Ba Ngôi, hiện tỏ trước lư trí của chúng ta.

 

Trong âm thầm chiêm niệm, được điểm bằng sự lạ lùng trước những kỳ công của mầu nhiệm hiện tỏ, linh hồn của ngài bị thu hút vào vẻ đẹp và vinh quang thần linh.

 

Trong khi Thánh Gregory tham dự Công Đồng Chung Thứ Hai năm 381, ngài được chọn làm Giám Mục thành Constantinople và chủ sự Công Đồng này; thế nhưng ngài đă bị đối đầu thẳng mặt bởi sự chống đối dữ dội, cho đến độ t́nh h́nh đă trở nên không thể chấp nhận được. Những thái độ thù nghịch này không thể nào chịu đựng nổi đối với một linh hồn tế nhị như thế.

 

Những ǵ Thánh Gregory trước đó đă than van bằng những lời lẽ chân thành đều được lập lại: “Chúng ta đă phân chia Chúa Ktiô, chúng ta là thành phần đă yêu mến Thiên Chúa và Chúa Kitô! Chúng ta đă lừa dối nhau v́ Sự Thật, chúng ta đă nuôi dưỡng những cảm xúc hận thù v́ T́nh Yêu, chúng ta đă phân rẽ nhau” (Orationes 6: 3; SC 405: 128).

 

Bởi thế, trong một bầu không khí căng thẳng, ngài cảm thấy đă đến lúc từ nhiệm.

 

Trong một vương cung thánh đường đông nghẹt, Thánh Gregory đă giảng một bài từ biệt có một công dụng và giá trị lớn lao (cf. Orationes 42; SC 384: 48-114). Ngài đă chấm dứt bài nói đau ḷng của ngài bằng những lời lẽ như sau: “Xin từ biệt, hỡi đại đô, được Chúa Kitô yêu dấu… Hỡi con cái yêu dấu của tôi, tôi van xin anh chị em, hăy nhiệt thành canh giữ kho tàng đức tin đă được kư thác cho anh chị em (x 1Tim 6:20), hăy nhớ đến nỗi đau khổ của tôi (x Col 4:18). Chớ ǵ ân sủng của Chúa Giêsu Kitô ở cùng tất cả anh chị em” (cf. Orationes 42: 27; SC 384: 112-114).

 

Thánh Gregory đă trở về Nazianzus và trong ṿng 2 năm ngài đă dấn thân cho việc chăm sóc mục vụ của cộng đồng Kitô hữu này. Đoạn ngài vĩnh viễn rút lui vào nơi thanh tịnh gần Arianzo, nơi sinh trưởng của ngài, và đă hiến thân học hỏi và sống đời khổ hạnh.

 

Chính trong thời gian này ngài đă viết đa số các tác phẩm thi ca của ḿnh và nhất là cuốn tự thuật của ngài: De Vita Sua, một cuộc tái giải thích từng hồi cuộc hành tŕnh nhân bản và thiêng liêng của ngài, một cuộc hành tŕnh gương mẫu của một người Kitô hữu khổ đau, của một con người sâu xa nội tâm trong một thế giới đầy những xung khắc.

 

Ngài là một con người làm cho chúng ta nhận thấy được thượng quyền của Thiên Chúa, bởi thế, ngài cũng nói cho chúng ta, cho thế giới của chúng ta rằng: không có Thiên Chúa, con người mất đi  sự cao cả của ḿnh; không có Thiên Chúa, không có nhân bản thực sự.

 

Tóm lại, chúng ta cũng hăy lắng nghe lời này và t́m cách nhận biết Dung Nhan Thiên Chúa.

 

Ở một trong những bài thơ ngài viết, ngài đă tự ngỏ lời với Thiên Chúa rằng: “Chớ ǵ Chúa nhân từ rộng lượng, Chúa là mai hậu của tất cả mọi sự” (Carmina [dogmatica] 1: 1, 29; PG 37: 508).

 

Thế rồi vào năm 390, Thiên Chúa đă đón nhận người tôi trung này, người đă bênh vực Ngài nơi các bản viết của ḿnh một cách tinh tường và đă đầy kính mến chúc tụng Ngài nơi thi ca của ḿnh.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh

 

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2007/documents/hf_ben-xvi_aud_20070808_en.html

 

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong tiến tŕnh tŕnh bày các vị đại Giáo Phụ và Tiến Sĩ của Hội Thánh đang được tôi chia sẻ trong những buổi Giáo Lư này, lần vừa rồi tôi đă nói về Thánh Gregory Nazianzus, một v ị Giám Mục ở thế kỷ thứ 4, và hôm nay, tôi muốn hoàn trọn h́nh ảnh về một bậc đại sư này. Hôm nay, chúng ta sẽ cố gắng t́m hiểu một số giáo huấn của ngài.

 

Suy niệm về sứ vụ được Thiên Chúa ủy thác cho ḿnh, Thánh Gregory Nazianzus đă kết luận rằng: “Tôi đă được dựng nên để tiến lên ngay cả tới Thiên Chúa bằng các hoạt động của tôi” (Orationes 14, 6 De Pauperum Amore: PG 35, 865).

 

Thật vậy, ngài đă sử dụng những tài năng của ḿnh, là một văn sĩ và là thuyết giảng viên để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ Giáo Hội. Ngài đă viết rất nhiều bài thuyết giảng, các bài giảng và bài tán tụng khác nhau, rất nhiều bức thư và thi ca (gần 18 ngàn câu thơ) có tiếng: thật là một sự sản xuất phi thường.

 

Ngài đă nh́n nhận rằng đó là sứ vụ Thiên Chúa đă úy thác cho ngài: “Là một người tôi tớ của Lời Chúa, tôi gắn bó với thừa tác vụ của Lời Chúa; chớ ǵ tôi không bao giờ lo là với sự thiện này. Tôi cảm nhận được ơn gọi này và tôi tri ân ơn gọi ấy; tôi cảm thấy hân hoan bởi ơn gọi này hơn tất cả mọi sự khác hợp lại” (Orationes 6, 5: SC 405, 134; cf. also Orationes 4, 10).

 

Thánh Gregory Nazianzus là một con người mềm mại và trong đời sống luôn t́m cách mang lại an b́nh cho Giáo Hội vào thời của ngài, một Giáo Hội bị xâu xé bởi bất ḥa và lạc thuyết. Ngài đă nỗ lực dùng Phúc Âm để dấn thân thắng vượt tính chất e dè ngần ngại của ḿnh để loan báo sự thật của đức tin.

 

Thánh nhân đă cảm thấy sâu xa khao khát tiến đến gần Thiên Chúa, được hiệp nhất với Ngài. Thánh n hân đă diễn tả nó ở một trong những bài thơ của ḿnh như thế này: “Trong số nhiều ngọn sóng cồn cả thể của biển khơi cuộc sống, dận dồn bởi những cơn gió hoang dại… chỉ có một điều duy nhất   thân thương đối với tôi, là kho tàng duy nhất của tôi, an ủi và xoa dịu cuộc đối chọi của tôi, đó là ánh sáng của Thiên Chúa Ba Ngôi” (Carmina [historica] 2, 1, 15: PG 37, 1250ff.). Bởi thế, Thánh Gregory đă làm cho ánh s áng của Chúa Ba Ngôi sáng tỏ, bằng việc bênh vực đức tin được Công Đồng Chung Nicea công bố: đó là một Thiên Chúa duy nhất có 3 ngôi, bằng nhau và khác biệt – Cha, Con và Thánh Thần -, “một ánh sáng tam chiều qui tụ lại thành một ánh quang rạng ngời duy nhất” (Hymn for Vespers, Carmina [historica] 2, 1, 32: PG 37, 512).

 

Bởi thế, theo chiều hướng của Thánh Phaolô (1Cor 8:6), Thánh Gregory nói thêm rằng: “Đối với chúng ta th́ chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Cha, Đấng là nguồn mạch của tất cả mọi sự; và một Chúa duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Đấng là đường nẻo cho tất cả mọi sự; và một Thánh Thần duy nhất, Đấng ở trong tất cả mọi sự (Orationes 39, 12: SC 358, 172).

 

Thánh Gregory đă đề cao trọn vẹn nhân tính của Chúa Kitô, ở chỗ, để cứu chuộc toàn thể con người nơi cả thân xác, linh hồn và tinh thần của họ, Chúa Kitô đă mặc lấy tất cả mọi yếu tố của bản tính nhân loại, bằng không, con người không thể nào được cứu độ.

 

Để luận bác lạc thuyết của Apollinaris, người chủ trương rằng Chúa Giêsu Kitô không mặc lấy tâm trí, Thánh Gregory đă giải quyết vấn đề trong ánh sáng của mầu nhiệm cứu độ: “Những ǵ không được mặc lấy th́ không được chữa lành” (Ep. 101, 32: SC 208, 50), và nếu Chúa Kitô đă không “được trang bị bằng một tâm trí th́ làm sao Người có thể làm người được chứ?” (Ep. 101, 34: SC 208, 50). Chính tâm trí của chúng ta là những ǵ đă cần đến và đang cần đến mối liên hệ, cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trong Chúa Kitô.

 

Trở thành một con người, Chúa Kitô đă hiến cho chúng ta cơ hội để ngược lại trở thành như Người. Thánh Gregory Nazianzus đă kêu gọi dân chúng rằng: “Chúng ta hăy t́m cách nên giống Chúa Kitô, v́ Chúa Kitô cũng đă trở nên như chúng ta: t́m cách trở thành thần linh nhờ Người v́ chính Người qua chúng ta đă trở thành một con người. Người đă tự nhận lấy những ǵ là tàn tệ nhất để làm cho chúng ta trở thành một tặng ân cao quí nhất” (Orationes 1, 5: SC 247, 78).

 

Mẹ Maria, Vị đă hiến cho Chúa Kitô nhân tính, là Mẹ Thiên Chúa thực sự (Theotokos: cf. Ep. 101, 16: SC 208, 42), và v́ sự vụ cao cả nhất của Mẹ, Mẹ “đă được thanh tẩy trước” (Orationes 38, 13: SC 358, 132, hầu như đây là một dạo khúc xa xa cho Tín Điều Hoài Thai Vô Nhiễm vậy). Mẹ Maria, đối với Kitô hữu, nhất là với các trinh nữ, như là một mẫu mực và sự phù giúp của họ trong những lúc cần thiết (cf. Orationes, 24, 11: SC 282, 60-64).

 

Thánh Gregory nhắc nhở chúng ta rằng, là người, chúng ta cần phải tỏ ra đoàn kết với nhau. Ngài viết: “’Tất cả chúng ta là một trong Chúa’ (x Rm 12:5), giầu hay nghèo, nô lệ hay tự do, khỏe mạnh hay đau yếu, cũng như nhau; và là một nơi vị thủ lănh là Chúa Giêsu Kitô, Đấng qui tụ tất cả. Và như các chi thể của một thân thể, mỗi một người đều có liên hệ với nhau, và tất cả mọi người đều liên hệ với nhau”.

 

Thế rồi ngài kết luận, khi đề cập tới thành phần bệnh nạn cũng như tới thành phần gặp khó khăn: “Đây là ơn cứu độ duy nhất cho xác thịt của chúng ta cũng như linh hồn của chúng ta: đó là khi chúng ta tỏ cho họ thấy được đức bác ái” (Orationes 14, 8 De Pauperum Amore: PG 35, 868ab).

 

Thánh Gregory nhấn mạnh rằng con người cần phải bắt chước sự thiện hảo và ḷng yêu thương của Thiên Chúa. Bởi vậy mà ngài đă khuyên nhủ rằng: “Nếu anh chị em khỏe mạnh và giầu có, hăy làm vơi đi nhu cầu của những ai bệnh nạn và nghèo khổ; nếu anh chị em không sa ngă, hăy đến trợ giúp những ai sa ngă và sống trong khổ đau; nếu anh chị em hân hoan, hăy an ủi những kẻ buồn thảm; nếu anh chị em may mắn, hăy giúp đáp những ai bất hạnh. Hăy cống hiến cho Thiên Chúa chứng cớ về ḷng tri ân của anh chị em, v́ anh chị em là thành phần được lợi ích chứ không phải người cần được lợi ích… Hăy giầu có chẳng những nơi những ǵ là sở hữu mà c̣n nơi ḷng trắc ẩn nữa; chẳng những nơi vàng bạc mà c̣n nơi nhân đức nữa, hay nơi nhân đức mà thôi. Tiếng tăm của anh chị em hăy trổi vượt hơn tha nhân của ḿnh bằng việc nhân ái hơn mọi người; hăy biến ḿnh thành Thiên Chúa đối với thành phần bất hạnh, phản ảnh t́nh thương của Thiên Chúa” (Orationes 14, 26 De Pauperum Amore: PG 35, 892bc).

 

Thánh Gregory dạy chúng ta trước hết và trên hết về tầm quan trọng và cần thiết của việc nguyện cầu. Ngài nói: “Cần phải nhớ Thiên Chúa thường xuyên hơn là con người hít thở” (Orationes 27, 4: PG 250, 78), v́ việc cầu nguyện là một cuộc gặp gỡ giữa ḷng khao khát của Thiên Chúa với ḷng khát khao của chúng ta. Thiên Chúa khao khát chúng ta khát khao Ngài (cf. Orationes 40, 27: SC 358, 260).

 

Khi nguyện cầu, chúng ta hướng tâm hồn của chúng ta về Thiên Chúa, kư thác bản thân chúng ta cho Ngài như một của lễ cần được thanh tẩy và biến đổi. Nơi nguyện cầu, chúng ta thấy tất cả mọi sự nơi ánh sáng của Chúa Kitô, chúng ta lột trần những bộ mặt giả tạo của ḿnh ra và ch́m ḿnh trong chân lư và lắng nghe Thiên Chúa, nung nấu ngọn lửa yêu thương.

 

Trong một bài thơ đồng thời cũng là một bài suy niệm về mục đích của cuộc đời và là một lời ngầm khẩn cầu lên Thiên Chúa, Thánh Gregory đă viết: “Hỡi linh hồn của tôi ơi, ngươi có một công việc làm cao cả nếu ngươi muốn như thế. Hăy nghiêm cẩn suy nghĩ về bản thân ḿnh, về hữu thể của ngươi, về số phận của ngươi; người từ đâu đến và cần phải nghỉ ngơi ở chốn nào; hăy t́m cách hiểu biết xem phái chăng đó là đời sống mà ngươi đang sống hay c̣n là một cái ǵ hơn thế nữa. Hỡi linh hồn tôi, ngươi có một việc làm, bởi vậy hăy thanh tẩy đời sống của ngươi: Hăy lưu ư tới Thiên Chúa và các mầu nhiệm của Ngài, hăy t́m hiểu những ǵ hiện hữu trước vũ trụ này và những ǵ được giành cho người, ngươi từ đâu đến và số phận của ngươi là ǵ. Hỡi linh hồn tôi ơi, đó là công việc của ngươi; bởi thế, hăy thanh tẩy đời sống của ḿnh” (Carmina [historica] 2, 1, 78: PG 37, 1425-1426).

 

Vị Giám Mục thánh này tiếp tục xin Chúa Kitô giúp đỡ để được nâng lên và bắt đầu khởi hành: “Ôi Chúa Kitô của con ơi, con đă bị ch́m đắm bởi ảo tưởng quá trớn của con: từ trên các đỉnh cao, con đă rơi xuống rất sâu. Thế nhưng, giờ đây xin Chúa hăy nâng con lên lại, để con có thể thấy rằng con đă lừa đảo bản thân ḿnh; nếu con vẫn c̣n tin tưởng quá nhiều vào bản thân ḿnh, con sẽ ngă lập tức và cái ngă đó sẽ là một cái ngă chí tử” (Carmina [historica] 2, 1, 67: PG 37, 1408).

 

Bởi vậy mà Thánh Gregory cảm thấy cần phải đến gần Thiên Chúa để thắng vượt được t́nh trạng mỏi mệt lừ đừ của ḿnh. Ngài đă cảm nghiệm được sức xô lấn của linh hồn, cái sôi nổi của một tinh thần nhạy cảm và cái bấp bênh của thứ hạnh phúc hời hợt.

 

Đối với ngài, trong thảm kịch của một cuộc đời bị đè nặng bởi ư thức về nỗi yếu kém và bất hạnh của ḿnh, th́ cảm nghiệm về t́nh yêu của Thiên Chúa bao giờ cũng phỗng tay trên.

 

Thánh Gregory cũng nói với chúng ta rằng, hỡi linh hồn, anh chị em có một công việc làm, một công việc t́m kiếm ánh sáng chân thực, t́m kiếm cái cao quí thực sự cho đời sống của anh chị em. Và đời sống của anh chị em đang gặp gỡ Thiên Chúa là Đấng khao khát ḷng khát khao của anh chị em.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2007/documents/hf_ben-xvi_aud_20070822_en.html