Thánh Tông Đồ Phaolô

 

 (Loạt bài Giáo Lư về Giáo Hội Hiệp Thông của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI vào các Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư hằng tuần)

 

(những tiểu đề do người dịch tự đặt ra cho từng bài)

 

 

Con Người và Ơn Gọi của Tông Đồ Phaolô

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Chúng ta đă kết thúc những bài chia sẻ của chúng ta về 12 Tông Đồ, những vị được Chúa Giêsu đích thân kêu gọi trong khi Người c̣n sống trên trần gian. Hom nay chúng ta bắt đầu tiến tới những h́nh ảnh về các nhân vật quan trọng khác trong Giáo Hội sơ khai. Các vị cũng đă hiến đời ḿnh cho Chúa Kitô, cho Phúc Âm và cho Giáo Hội. Các vị là những con người nam nữ, thành phần, như Thánh Luca viết trong Sách Tông Vụ là “đă liều mạng v́ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (15:26).

 

Vị đầu tiên trong thành phần này, được chính Chúa Giêsu kêu gọi, được Đấng Phục Sinh kêu gọi, cũng là một vị tông đồ đích thực, không ai khác ngoài Tông Đồ Phaolô thành Tarsus. Ngài sáng chói như một ngôi sao cao cả nhất trong lịch sử Giáo Hội, chứ không phải chỉ trong lịch sử của những thuở ban đầu ấy mà thôi.

 

Thánh Gioan Kim Khẩu đă tôn tụng ngài như là một nhân vật trổi vượt thậm chí hơn cả nhiều thiên thần và tổng lănh thiên thần (x "Panegyric" 7,3). Trong vở Hài Kịch Thần Linh, thi sĩ Dante Alighieri, được cảm hứng bởi tŕnh thuật của Thánh Luca trong Sách Tông Vụ (x 9:15), đă diễn tả ngài như là “một b́nh chứa ưu tuyển” (Inferno 2,28), tức là dụng cụ được Thiên Chúa chọn lựa. Những người khác gọi ngài là “Vị Tông Đồ Thứ 13” – và ngài thực sự cũng nhấn mạnh nhiều đến sự kiện là một tông đồ đích thực, được Đấng Phục Sinh tuyển chọn, hay thậm chí “là tông đồ đệ nhất sau Đấng Duy Nhất”.

 

Thật sự sau Chúa Giêsu, ngài là nhân vật từ ban đầu được chúng ta biết tới nhất. Đúng thế, chúng ta không những chỉ có tŕnh thuật của Thánh Luca trong Sách Tông Vụ mà c̣n có cả hàng loạt các bức thư do đích thân ngài viết, không qua trung gian nào, cho chúng ta thấy con người của ngài và tư tưởng của ngài. Thánh Luca nói với chúng ta rằng tên thật của ngài là Saolê (x Acts 7:58, 8:1 v.v.), theo tiếng Do Thái cũng là Saolê (x Acts 13:21), và ngài là một người Do Thái thuộc Cộng Đồng Do Thái Tha Hương, căn cứ vào thành Tarsus ở giữa Anatolia và Syria.

 

Ngài đă sớm lên Giêrusalem để học hỏi lề luật Moisen một cách sâu rộng nơi vị đại tôn sư Gamaliel (x Acts 22:3). Ngài cũng đă học nghề tay chân và thông thường, nghề làm lều (x Acts 18:3), một nghề sau đó đă giúp ngài tự lực mưu sinh không trở thành gánh nặng cho các Giáo Hội (x Acts 20:34; 1Cor 4:12; 2Cor 12:13-14).

 

Ngài cảm thấy rất cần phải hiểu biết cộng đồng của những ai tuyên xưng ḿnh là môn đệ Chúa Giêsu. Qua họ, ngài thấy được một niềm tin mới, một “đường lối” mới như được nói tới, một đường lối không lấy lề luật của Thiên Chúa làm chính yếu mà là con người Chúa Giêsu, Đấng tử giá và phục sinh, Đấng được cho là xóa bỏ tội lỗi. 

 

Là một người Do Thái nhiệt thành, ngài đă coi sứ điệp ấy là những ǵ bất khả chấp, hơn thế nữa, là những ǵ gây gương mù gương xấu, và cảm thấy có nhiệm vụ rat ay bách hại thành phần môn đệ Chúa Kitô, cả ở ngoài thành Giêrusalem. Chính trên đường đi Đamascô, vào đầu thập niên 30, theo lời của ngài, “Chúa Giêsu Kitô” đă chiếm đoạt Saul “làm của Người”. Trong khi Thánh Luca tŕnh thuật lại những diễn tiến xẩy ra với đầy những chi tiết – cách thức ánh sáng của Đấng Phục Sinh tỏa ra cho ngài, biến đổi hoàn toàn cuộc sống của ngài – th́ trong các bức thư của ḿnh, ngài nói thẳng tới những ǵ là chính yếu và nói chẳng những đến một thị kiến (x 1Cor 9:1), mà c̣n đến việc khải ngộ (x 2Cor 4:6), nhất là về một mạc khải và một ơn gọi trong cuộc gặp gỡ Đấng Phục Sinh (x Gal 1:15-16).

 

Thật vậy, ngài minh nhiên nói về ḿnh như là “vị tông đồ theo ơn gọi” (x Rm 1:1; 1Cor 1:1) hay “vị tông đồ theo ư muốn của Thiên Chúa” (2Cor 1:1; Eph 1:1; Col 1:1), như thể muốn nhấn mạnh tới việc hoán cải của ngài không phải là thành quả bởi những tư tưởng  hay đẹp, của những phản tỉnh, mà là hoa trái của việc Thiên Chúa can thiệp, của một ân sủng thần linh không hề biết trước. Bởi thế, hết mọi sự trước đó đối với ngài là trân qúi đă trở thành, ngược đời thay, theo lời lẽ của ngài, những ǵ thua lỗ và phế thải (x Phil 3:7-10). Để rồi, tứ lúc ấy, ngài dốc toàn lực của ḿnh vào việc phục vụ một ḿnh Chúa Giêsu Kitô và Phúc Âm của Người. Cuộc sống của ngài trở thành cuộc sống của một vị tông đồ muốn hoàn toàn “trở nên mọi sự cho mọi người” (1Cor 9:22).

 

Ở đây chúng ta thấy có một bài học rất quan trọng, đó là vấn đề hăy lấy Chúa Giêsu Kitô làm tâm điểm cuộc sống của ḿnh, nhờ đó căn tính của chúng ta được hiện lộ chính yếu bởi cuộc hội ngộ với Chúa Kitô, bởi việc hiệp thống với Người cũng như với lời của Người. Hết mọi thứ giá trị khác cần phải được tái phục hồi và thanh tẩy cho khỏi những ǵ là cặn bă khả dĩ trong ánh sáng soi của Người.

 

Một bài học quan trọng khác từ Thánh Phaolô đó là chân trời thiêng liêng làm nên đặc tính cho vai tṛ tông đồ của ngài. Cảm nhận một cách sâu sắc về vấn đề Dân Ngoại, tức là thành phần lương dân, có thể đạt tới Thiên Chúa, Đấng là Chúa Giêsu Kitô tử giá và phục sinh để hiến ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người bất kỳ ai, ngài đă dấn thân để loan truyền Phúc Âm này, nghĩa đen là “tin vui”, tức là loan truyền ân huệ được ban tặng để ḥa giải con người với Thiên Chúa, với chính họ và với nhau. Ngay từ giây phút đầu tiên, ngài đă hiểu rằng đó là một thực tại không những liên can tới người Do Thái, một nhóm người nào đó, mà c̣n có một giá trị phổ quan liên quan tới tất cả mọi người nữa.

 

Giáo Hội ở Antiôkia xứ Syria là khởi điểm cho các cuộc hành tŕnh của ngài, nơi Phúc Âm lần đầu tiên được loan báo cho những người Hy Lạp, và là nơi danh xưng “Kitô hữu” cũng được h́nh thành (x Acts 11:20,26), tức là thành phần tin vào Chúa Kitô. Từ đó, ngài bắt đầu chuyển tới Cyprus, rồi vào những lần khác nhau, tới những vùng Tiểu Á (Pisidia, Laconia, Galatia), và sau đó tới những vùng đất Âu Châu (Macedonia, Hy Lạp). Rơ ràng hơn là các thành phố Ephesus, Philipi, Thessalonica, Corinth, chưa kể tới Berea, Athens và Miletus.

 

Vai tṛ tông đồ của Thánh Phaolô không thiếu những khốn khó là những ǵ được ngài hiên ngang đương đầu v́ yêu mến Chúa Kitô. Chính ngài đă nhắc lại rằng ngài đă chịu đựng “lao nhọc… tù hăm… đánh đập; nhiều lần nguy tử… Ba lần tôi đă bị đánh bằng roi; một lần bị ném đá. Ba lần tôi đă bị đắm tầu… vào những cuộc hành tŕnh thường xuyên, nguy hiểm ở trên sông, nguy hiểm bị cướp bóc, nguy hiểm bởi dân ḿnh, nguy hiểm bởi Dân Ngoại, nguy hiểm trong thành thị, nguy hiểm ngoài hoang vắng, nguy hiểm trên biển cả, nguy hiểm nơi anh em gian trá; chịu vất vả cực nhọc, nhiều đêm bị mất ngủ, chịu đói chịu khát, thường không có của ăn, chịu lạnh lẽo và trần trụi. Ngoài ra tôi c̣n chịu day dứt hằng ngày bởi mối quan tâm cho tất cả mọi Giáo Hội” (2Cor 11:23-28).

 

Trong một đoạn thư gửi cho giáo đoàn Rôma (x 15:24,28) ngài tỏ ư định đi Tây Ban N ha, đi tới các giới tuyến của Tây phương, để loan truyền Phúc Âm khắp nơi cho đến tận cùng trái đấy bấy giờ. Làm sao không ca ngợi một con người như thế chứ? Làm sao chúng ta không cám ơn Chúa v́ đă ban cho chúng ta một vị tông đồ có một tầm cỡ như vậy chứ? Hiển nhiên là ngài không thể nào đương đầu nổi với t́nh trạng khốn khó như vậy và có những lúc có những trường hợp thật là tuyệt vọng, nếu ngài không có một lư do chất chứa giá trị tuyệt đối vượt trên tất cả mọi sự. Chúng ta biết rằng, đối với Thánh Phaolô th́ lư do ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng ngài đă viết: “T́nh yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta… Người đă chết cho tất cả chúng ta, để những ai sống th́ không c̣n sống cho chính ḿnh nữa mà là cho Đấng đă chết đi và sống lại v́ họ” (2Cor 5:14-15), v́ chúng ta, v́ tất cả mọi người.

 

Thật vậy, vị Tông Đồ này đă cống hiến chứng từ tối hậu bằng máu của ḿnh dưới thời hoàng đế Nero ở Rôma đây, nơi chúng ta ǵn giữ và tôn kính những hài tích tử nạn của ngài. Vào những năm cuối cùng của thế kỷ thứ nhất, vị tiền nhiệm của tôi là Clementê thành Rôma ở Ṭa Thánh này đă viết: “Bởi bị ghen ghét và bất đồng, Thánh Phaolô đă buộc phải cho chúng ta thấy làm thế nào người ta chiếm đạt được phần thưởng của sự nhẫn nại… Sau khi rao giảng công lư cho tất cả mọi người trên thế giới, và sau khi đă tiến đến những giới hạn của Tây phương, ngài đă chịu tử đạo trước thành phần cầm quyền chính trị; ngài đă để ĺa bỏ thế giới này bằng cách ấy để tiến đến nơi thánh, nhờ đó trở thánh mẫu gương vĩ đại nhất cho sự kiên tŕ” (Thư cho Corintô, 5).

 

Chớ ǵ Chúa Kitô giúp chúng ta biết sống lời huấn dụ của Vị Tông Đồ này đă để lại cho chúng ta trong các bức thư của ngài, đó là “anh  em hăy bắt chước tôi như tôi đă bắt chước Chúa Kitô’ (1Cor 11:1).



Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 25/10/2006

 

 

 

Nội Tâm và Đức Tin của Tông Đồ Phaolô

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong bài giáo lư trước, hai tuần mới đây, tôi đă cố gắng phác tả những nét chính yếu về tiểu sử của vị Tông Đồ Phaolô. Chúng ta đă thấy được cuộc gặp gỡ Chúa Kitô trên đường đi Damasco thực sự đă biến đổi cuộc đời của ngài ra sao. Chúa Kitô đă trở thành lư do hiện hữu của ngài và là động lực mănh liệt cho tất cả mọi hoạt động tông đồ của ngài.

 

Trong cách bức thư của ngài, sau danh xưng của Thiên Chúa, xuất hiện trên 500 lần, danh xưng được nhắc đến thường xuyên nhất là danh xưng Chúa Kitô – 380 lần. Bởi thế, chúng ta cần phải nhận thấy rằng Chúa Giêsu Kitô đă chi phối cuộc sống của một con người ra sao, và bởi thế cũng chi phối cả đời sống của chúng ta nữa. Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô là tột đỉnh của lịch sử cứu độ, bởi đó cũng là điểm thực sự khác biệt trong cuộc đối thoại với các tôn giáo khác.

 

Nh́n vào gương của Thánh Phaolô, bởi vậy chúng ta có thể đặt vấn đề căn bản là: Việc con người gặp gỡ Chúa Kitô xẩy ra như thế nào? Mối liên hệ xuất phát từ cuộc gặp gỡ này là ở chỗ nào? Câu giải đáp được Thánh Phaolô cống hiến có thể được hiểu hai cách.

 

Trước hết, Thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu được giá trị trọng yếu bất khả thay thế của đức tin. Trong bức thư gửi cho giáo đoàn Rôma, ngài đă viết: ‘Chúng ta tin rằng con người được công chính hóa bởi đức tin chứ không phải bởi các việc làm của lề luật’ (3:28). Và trong Thư gửi giáo đoàn Galata: ‘Con người không được công chính hóa bởi những việc làm của lề luật mà là nhờ niềm tin tưởng vào Chúa Giêsu Kitô, cho dù chúng ta đă tin tưởng vào Chúa Giêsu Kitô, để được công chính hóa bởi niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải bằng những việc làm của lề luật, v́ không ai được công chính hóa bởi những việc làm của lề luật’ (2:16).

 

‘Được nên công chính’ đây nghĩa là được làm cho nên chính trực, tức là được Thiên Chúa công minh xót thương, và được hiệp thông với Ngài, nhờ đó có thể thiết lập mối liên hệ chân thực nhiều hơn nữa với tất cả mọi anh chị em của chúng ta: và việc nên công chính này là do bởi t́nh trạng tội lỗi của chúng ta được hoàn toàn thứ tha.

 

Thánh Phaolô đă nói rơ ràng là t́nh trạng này của đời sống không lệ thuộc vào các việc lành khả dĩ của chúng ta, mà là hoàn toàn vào ân sủng của Thiên Chúa: Chúng ta ‘được công chính hóa nhờ ơn Ngài ban, qua việc cứu chuộc nơi Chúa Giêsu Kitô’ (Rm 3:24).

 

Bằng những lời lẽ ấy, Thánh Phaolô đă diễn tả nội dung sâu xa của việc ngài hoán cải, một hướng đi mới cho cuộc sống của ngài như là thành quả của việc ngài gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh. Trước cuộc hoán cải của ḿnh, Thánh Phaolô đă không phài là một con người xa lạ đối với Thiên Chúa hay đối với lề luật của Chúa. Trái lại, ngài một con người tuân giữ luật lệ, một thứ tuân giữ có tính cách cuồng tín.

 

Tuy nhiên, trong ánh sáng của cuộc hội ngộ với Chúa Kitô, ngài đă hiểu được rằng nếu sống như thế th́ ngài chỉ t́m cách tự tạo nên sự công chính cho bản thân ngài, và bằng tất cả những ǵ là chính trực ấy ngài chỉ sống cho chính ḿnh ngài mà thôi. Ngài đă hiểu được rằng đời sống của ngài cần phải được hoàn toàn xoay chiều. Và ngài đă bày tỏ chiều hướng mới này như thế vầy: ‘Sự sống giờ đây tôi đang sống trong xác thịt là sự sống tôi sống theo niềm tin tưởng vào Con Thiên Chúa, Đấng đă yêu thương tôi và hiến ḿnh v́ tôi’ (Gal 2:20). 

 

Bởi vậy, Thánh Phaolô đă không c̣n sống cho chính ḿnh, cho sự công chính của riêng ngài. Ngài sống bởi Chúa Kitô và với Chúa Kitô: Bằng việc hiến thân, ngài không c̣n t́m kiếm bản thân hay sống cho bản thân ḿnh nữa. Đó là một sự công chính mới, một chiều hướng mới được Chúa Kitô cống hiến cho chúng ta, một sự công chính ban niềm tin cho chúng ta. Trước thập giá của Chúa Kitô, dấu hiệu cao cả nhất của việc tự hiến bản thân ḿnh, không ai c̣n vênh vang được nữa về bản thân ḿnh, về sự công chính của riêng ḿnh!

 

Vạ một dịp khác, Thánh Phaolô, âm vang lời của tiên tri Giêrêmia, đă làm sáng tỏ tâm tưởng của ngài như sau: ‘Ai vênh vang th́ hăy vênh vang trong Chúa’ (1Cor 1:31; Jer 9:22f); hay ‘Thế nhưng tôi chẳng t́m vinh quang nào khác ngoài thập tự giá của Chúa Giêsu Kitô, v́ vậy mà thế gian đă bị đóng đinh đối với tôi và tôi đối với thế gian’ (Gal 6:14).

 

Khi suy nghĩ về những ǵ hàm nghĩa trong việc không công chính ḿnh bởi những việc làm của lề luật mà là bởi đức tin, chúng ta tiến đến điểm thứ hai là điểm xác định căn tính Kitô Giáo được Thánh Phaolô diễn tả về cuộc sống của ngài. Thật vậy, căn tính của Kitô Giáo là những ǵ được cấu tạo nên bởi hai yếu tố, đó là không t́m kiếm bản thân ḿnh, mà là mặc lấy Chúa Kitô và hiến ḿnh cùng với Chúa Kitô, nhờ đó bản thân được tham dự vào đời sống của chính Chúa Kitô cho đến độ được ch́m ngập trong Người, được thông dự vào cả sự chất lẫn sự sống của Người.

 

Thánh Phaolô đă viết trong Thư gửi giáo đoàn Rôma rằng Chúng ta đă ‘được rửa trong Chúa Giêsu Kitô là chúng ta đă được rửa trong cái chết của Người… chúng ta đă được mai táng với Người … chúng ta đă được nên một với Người…. Bởi vậy mà anh chị em cần phải coi ḿnh như đă chết cho tội mà sống cho Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô’ (6:3,4,5,11). Thật ra lời diễn tả vừa rồi có tính cách triệu chứng, ở chỗ, đối với Thánh Phaolô, không đủ khi nói rằng Kitô hữu được lănh nhận phép rửa là thành phần tín hữu; đối với ngài, cũng quan trọng không kém khi nói rằng họ ‘ở trong Chúa Giêsu Kitô’ nữa (cũng x, Rm 8:1,2,39, 12:5, 16:3,7,10; 1Cor 1:2,3 v.v.).

 

Trong những lần khác, ngài đảo ngược chữ nghĩa và viết rằng ‘Chúa Kitô ở trong chúng ta / trong an h chị em’ (Rm 8:10; 2Cor 13:5) hay ‘trong tôi’ (Gal 2:20). Việc hiểu biết nhau này giữa Chúa Kitô và Kitô hữu, một đặc tính nơi giáo huấn của Thánh Phaolô, là những ǵ hoàn trọn ư nghĩa của ngài về đức tin. Thật vậy, mặc dù liên kết chúng ta một cách thân t́nh với Chúa Kitô, đức tin vẫn nhấn mạnh tới cái khác biệt giữa chúng ta và Người.

 

Tuy nhiên, theo Thánh Phaolô, đời sống của Kitô hữu cũng là một yếu tố chúng ta có thể gọi là ‘thần bí’, v́ nó bao hàm việc mất bản thân chúng ta trong Chúa Kitô và Chúa Kitô trong chúng ta. Bởi đó, vị Tông Đồ này c̣n tiến đến chỗ diễn tả những nỗi khổ đau của chúng ta như ‘những đau khổ của Chúa Kitô trong chúng ta’ (2Cor 1:5), nhờ đó chúng ta luôn mang ‘trong thân xác cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để sự sống của Chúa Giêsu được tỏ hiện nơi thân xác của chúng ta’ (2Cor 4:10).

 

Chúng ta cần phải áp dụng tất cả mọi điều này vào cuộc sống thường nhật của chúng ta theo gương Thánh Phaolô, vị luôn sống theo chân trời linh đạo cao cả này. Một mặt5, đức tin cần phải giữ chúng ta có một thái độ liên lỉ khiêm hạ trước Thiên Chúa, hơn thế nữa, thái độ tôn thờ và chúc tụng đối với Ngài. Đúng vậy, những ǵ chúng ta là như thành phần Kitô hữu chúng ta đều có được duy bởi Ngài và nhờ ơn Ngài. V́ không ǵ và không ai thay được chỗ của Ngài mà cần chúng ta không được qui về cho bất cứ cái ǵ hay bất cứ ai việc tôn thờ chúng ta qui về Ngài. Không một thần tượng nào được làm cho vũ trụ thiêng liêng của chúng ta bị ô nhiễm; bằng không, thay v́ hoan hưởng niềm tự do chiếm hữu chúng ta sẽ rơi lại vào một thứ nô lệ nhục nhă. Đàng khác, việc chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô và sự kiện ‘chúng ta ở trong Người’ cần phải thấm nhập nơi chúng ta một thái độ hoàn toàn tin tưởng và tràn đầy hân hoan.

 

Tóm lại, chúng ta cần phải cùng với Thánh Phaolô hô lên rằng: ‘Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta th́ ai chống lại chúng ta?’ (Rm 8:39). Bởi thế, đời sống Kitô hữu của chúng ta được dựa vào một tảng đá vững vàng và chắc chắn nhất có thể mường tượng được. Từ đó, chúng ta lấy được tất cả nghị lực của ḿnh, như vị Tông Đồ này thật sự đă viết: ‘Tôi có thể làm được tất cả mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi’ (Phil 4:13).

 

Vậy chúng ta hăy đối diện với cuộc sống của chúng ta, bằng những niềm vui nỗi buồn của nó, một cuộc đời được hỗ trợ bởi những cảm thức cao cả ấy được Thánh Phaolô cống hiến cho chúng ta. Cảm nghiệm được điều ấy, chúng ta có thể hiểu rằng những ǵ đích thân vị Tông Đồ viết ra đều thực: ‘Tôi biết Đấng tôi tin tưởng, và tôi tin rằng Người có thể ǵn giữ bảo vệ những ǵ đă được trao phó cho tôi cho đến ngày’, tức là cho đến ngày cuối cùng (2Tim 1:12) của việc chúng ta gặp gỡ Chúa Kitô là vị Thẩm Phán, là Đấng Cứu Tinh của thế giới và của chúng ta.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 8/11/2006

 

 

 

Giáo Huấn về Thánh Linh của Tông Đồ Phaolô

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Hôm nay, như hai bài giáo lư trước, chúng ta lại nói về Thánh Phaolô và về tư tưởng của ngài. Chúng ta đang ở trước một vĩ nhân, chẳng những về tầm mức của việc hoạt động tông đồ cụ thể, mà c̣n về mức độ giáo huấn thần học nữa, một giáo huấn hết sức sâu xa và sinh động. Sau khi đă suy niệm trong lần vừa rồi liên quan tới những ǵ Thánh Phaolô viết về vị thế chính yếu của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sống đức tin của chúng ta, hôm nay chúng ta hăy xem những ǵ ngài nói với chúng ta về Thánh Linh và về sự hiện diện của Thánh Linh nơi chúng ta, v́ trong cả về vấn đề này, Vị Tông Đồ cũng muốn dạy chúng ta một điều ǵ đó rất quan trọng.

 

Chúng ta biết những ǵ Thánh Luca nói với chúng ta về Thánh Linh trong Sách Tông Vụ, khi diễn tả về biến cố Hiện Xuống. Vị Thần Linh Hiện Xuống này tác động một năng lực mănh liệt trong việc dấn thân thực hiện sứ vụ làm chứng cho Phúc Âm trên các nẻo đường thế giới. Thật vậy, Sách Tông Vụ đă tŕnh thuật tất cả những đợt truyền giáo của các vị tông đồ, trước hết là ở Samaria, rời tới giải duyên hải Palestine, như tôi đă nhắc lại ở cuộc gặp gỡ Thứ Tư vừa rồi.

 

Tuy nhiên, trong những bức thư của ḿnh, Thánh Phaolô cũng nói với chúng ta về vị Thần Linh này theo một quan điểm khác. Ngài không chỉ giới hạn vào việc diễn giải cho thấy chiều lích năng động và hoạt động của Vị Ngôi Ba Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, mà c̣n phân tính việc hiện diện của Ngài nơi đời sống của Kitô hữu nữa, một đời sống làm nên bởi Ngài. Tức là Thánh Phaolô suy tư về việc vị Thần Linh này tỏ ảnh hưởng của ḿnh ra chẳng những qua hành động của Kitô hữu mà c̣n nơi chính con người của họ nữa. Thật vậy, ngài đă nói rằng Thần Linh của Thiên Chúa ở trong chúng ta (x Rm 8:9; 2Cor 3:16), và ‘Thiên Chúa đă sai Thần Linh Con Ngài vào ḷng chúng ta’ (Gal 4:6). 

 

Bởi thế, đối với Thánh Phaolô, vị Thần Linh này thấm nhập những tầng sâu thẳm nhất của bản thân chúng ta. Như vậy th́ những lời sau đây có một ư nghĩa thích đáng: ‘V́ thứ luật của thần trí sự sống nơi Chúa Giêsu Kitô đă giải thoát anh em khỏi thứ luật tội lỗi và sự chết…. V́ anh em đă không lănh nhận tinh thần nô lệ để lại cảm thấy lo âu sợ hăi, nhưng anh em đă lănh nhận một tinh thần nghĩa tử là tinh thần làm cho chúng ta kêu lên rằng Abba - Cha Ơí’ (Rm 8:2,15), bởi chúng ta là con cái nên chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là ‘Cha’.

 

Do đó, chúng ta có thể thấy rằng Kitô hữu, ngay cả trước khi tác hành nữa, đă có được một nội tâm phong phú và dồi dào sinh lực, những ǵ đă được ban cho họ nơi bí tích thanh tẩy và thêm sức, một thứ nội tâm đưa họ đến một mối liên hệ khách quan và độc đáo của một người con Thiên Chúa. Phẩm vị cao cả của chúng ta là ở chỗ này, đó là chúng ta chẳng những là h́nh ảnh mà c̣n là con cái của Thiên Chúa nữa. Và điều này trở thành một lời mời gọi hăy sống t́nh con cái của chúng ta, càng ngày càng ư thức rằng chúng ta là những đức con được thừa nhận trong đại gia đ́nh của Thiên Chúa. Đó là một lời mời gọi  hăy biến đổi tặng ân khách quan này thành một thực tại chủ quan, quyết định về cách thức suy tưởng của chúng ta, về tác hành của chúng ta, về con người của chúng ta. Thiên Chúa coi chúng ta là con cái của Ngài, như Ngài đă nâng chúng ta lên một phẩm vị tương tư tuy không ngang hàng với phẩm vị của chính Chúa Giêsu, Đấng duy nhất hoàn toàn là Người Con đích thực. Nơi Người, chúng ta được ban tặng hay lấy lại được thân phận con cái và quyền tự do tin tưởng vào mối liên hệ giữa chúng ta với Cha.

 

Nhờ đó, chúng ta khám phá ra rằng, đối với Kitô hữu, vị Thần Linh này không c̣n là ‘Thần Linh của Thiên Chúa’, như thường được nói tới trong Cựu Ước cũng như được ngôn từ Kitô Giáo lập lại (cf. Genesis 41:38; Exodus 31:3; 1 Corinthians 2:11.12; Philippians 3:3; etc.). Và Ngài không chỉ là ‘Thánh Thần’, được hiểu một cách tổng quát theo cách diễn tả của Cựu Ước (cf. Isaiah 63:10,11; Psalm 51:13) và của chính Do Thái Giáo nơi những bản văn của họ (Qumran, rabbinism).

 

Đức tin Kitô Giáo thích đáng là một lời tuyên xưng vào việc dự phần của Vị Thần Linh nơi Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng tự ḿnh đă trở thành ‘Thần Linh ban sự sống’ (1Cor 15:45). Chính v́ lư do này Thánh Phaolô nói thẳng tới ‘vị Thần Linh của Chúa Kitô’ (Rm 8:9), về ‘Vị Thần Linh của Con Ngài’ (Gal 4:6) hay về ‘Vị Thần Linh của Chúa Giêsu Kitô’ (Phil 1:19). Như thể ngài muốn nói rằng chẳng những Thiên Chúa Cha trở nên hữu h́nh nơi Người Con (x Jn 14:9), mà cả Thần Linh Thiên Chúa cũng được thể hiện nơi cuộc sống và hành động của Chúa Kitô tử giá và phục sinh nữa vậy.

 

Thánh Phaolô dạy chúng ta một điều quan trọng khác. Ngài nói rằng không có một lời nguyện cầu chân thực nào mà lại thiếu sự hiện diện của Vị Thần Linh này nơi chúng ta. Thật vậy, ngài viết: ‘Cũng thế, Thần Linh cũng đến hỗ trợ nỗi yếu hèn của chúng ta; v́ chúng ta không biết cầu nguyện làm sao cho phải mà chính Thần Linh chuyển cầu bằng những lời than khôn tả. Và ai đi sâu vào cơi ḷng th́ biết được những ǵ Thần Linh muốn, v́ Ngài chuyển cầu cho các thánh theo ư muốn của Thiên Chúa’ (Rm 8:26-27).

 

Điều này như muốn nói rằng Thánh Thần, tức Thần Linh của Cha và Con, trở thành hồn sống của linh hồn chúng ta, phần mật kín nhất nơi con người của chúng ta, từ đó mới không ngừng dâng lên Thiên Chúa một tác động nguyện cầu, một tác động chúng ta thậm chí không thể diễn tả nổi bằng ngôn từ. Thật vậy, Vị Thần Linh này hằng làm bừng lên trong chúng ta, bù đắp những thiếu sót của chúng ta và hiến dâng lên Cha việc tôn thờ của chúng ta, cùng với những khát vọng sâu xa nhất của chúng ta. Dĩ nhiên là điều này cần một tầm mức hiệp thông sinh động với Thần Linh. Nó là một mời gọi trở nên nhậy cảm hơn, biết chuyên chú hơn về sự hiện diện của Thần Linh trong chúng ta, biến đổi việc hiện diện này thành lời nguyện cầu, cảm nghiệm việc hiện diện này và nhờ đó biết nguyện cầu, biết nói với Cha như con cái trong Thánh Thần.

 

Ngoài ra, c̣n một khía cạnh quen thuộc khác về Vị Thần Linh này cũng được Thánh Phaolô chỉ dạy cho chúng ta, đó là khía cạnh về mối liên hệ giữa Ngài và t́nh yêu. Bởi thế Thánh Tông Đồ viết: ‘Hy vọng th́ không làm thất vọng, v́ t́nh yêu của Thiên Chúa đă được tuôn đổ vào ḷng chúng ta nhờ Thánh Thần được ban cho chúng ta’ (Rm 5:5). Trong bức thông điệp ‘Thiên Chúa là T́nh Yêu’ của ḿnh, tôi đă trích dẫn một câu rất hay, đó là câu ‘nếu anh chị em thấy đức ái là anh chị em thấy Ba Ngôi’ (đoạn 19), rồi tôi đă diễn giải rằng: ‘Thần Linh là quyền lực nội tại ḥa hợp tâm can của người tín hữu với tâm can của Chúa Kitô và thúc đẩy tâm can của họ yêu thương anh chị em ḿnh như Chúa Kitô đă yêu thương những người anh chị em ấy’ (cùng đoạn). 

 

Thần Linh đưa chúng ta vào chính nhịp sống của sự sống thần linh là một sự sống yêu thương, làm cho chúng ta được đích thân thàm dự vào những liên hệ hiện hữu giữa Cha và Con. Vấn đề rất hay ở đây là khi liệt kê các yếu tố khác nhau nơi hoa trái của Thần Linh, Thánh Phaolô đă đề cập tới yêu thương trước hết: ‘Hoa trái của Thần Linh là yêu thương, hoan lạc, b́nh an’ v.v. (Gal 5:22). Và tự ư nghĩa nếu t́nh yêu là những ǵ liên hiệp th́ Thần Linh trước hết là Đấng tạo nên mối hiệp thông trong cộng đồng Kitô hữu, như chúng ta vẫn đọc ở đầu Thánh Lễ lời diễn tả của Thánh Phaolô: ‘… và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần (tức là Ngài tác hành nhờ ơn hiệp thông này) ở cùng tất cả anh chị em’ (2 Cor 13:13).

 

Tuy nhiên, hơn thế nữa, quả thực là Thần Linh tác động chúng ta dấn thân vào các mối liên hệ bác ái với tất cả mọi dân tộc. Nhờ đó, khi chúng ta yêu thương là chúng ta dọn chỗ cho Thần Linh, chúng ta giúp cho Ngài có thể tỏ ḿnh ra một cách trọn vẹn. Bởi vậy mà chúng ta hiểu được lư do tại sao Thánh Phaolô đă liên kết hai lời huấn dụ này vào cùng một trang Thư gửi giáo đoàn Rôma: ‘Hăy tỏ ra tinh thần nhiệt thành’ và ‘đừng lấy oán báo oán’ (Rm 12:11,17).

 

Sau hết, theo Thánh Phaolô, Thần Linh là một bảo chứng bao dung do chính Thiên Chúa ban cho chúng ta trước để đồng thời bảo đảm gia sản mai này của chúng ta (x 2Cor 1:22, 5:5; Eph 1:13-14). Bởi thế mà chúng ta hăy học nơi Thánh Phaolô là tác động của Thần Linh là những ǵ hướng đời sống của chúng ta về các giá trị cao cả của yêu thương, của hoan lạc, của hiệp thông và của hy vọng. Chúng ta cần phải cảm nghiệm được điều này hằng ngày, đáp ứng những tác động nội tâm của Thần Linh, một Thần Linh được vị Tông Đồ này khôn ngoan hướng dẫn để có thể nhận thức thấy.



Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 15/11/2006

 

 

 

Thánh Phaolô – Giáo Huấn về Giáo Hội

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Hôm nay chúng ta hoàn tất việc chúng ta gặp gỡ Thánh Phaolô, giành buổi chia sẻ cuối cùng này về ngài. Thật vật, chúng ta không thể kết thúc về ngài mà không nói tới một trong những yếu tố quan trọng trong sinh hoạt của ngài và là một trong những đề tài quan trọng nơi tâm tưởng của ngài, đó là thực tại v ề Giáo Hội.

 

Trước hết chúng ta cần phải lưu ư là việc ngài được giao tiếp lần đầu tiên với con người của Chúa Giêsu đă xẩy ra qua chứng từ của cộng đồng Kitô Giáo ở Giêrusalem. Đó là một cuộc giao tiếp đầy sóng gió. Thấy được nhóm người tín đồ mới ấy, lập tức ngài trở thành một tay bách hại nẩy lửa đối với cộng đồng này. Chính ngài đă phải nh́n nhận điều ấy 3 lần trong nhiều bức thư, như ngài viết: ‘Tôi đă bách hại Giáo Hội của Thiên Chúa’ (1Cor 15:9; Gal 1:13; Phil 3:6), khi thực sự cho rằng hành vi cử chỉ của ngài được coi là một tội ác xấu xa nhất.

 

Lịch sử cho chúng ta thấy rằng con người tiến đến với Chúa Kitô thường là qua Giáo Hội! Ở một nghĩa nào đó, nó là điều đă xẩy ra, như chúng ta đă nói, cho cả Thánh Phaolô nữa, vị đă thấy Giáo Hội trước khi thấy Chúa Kitô. Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc giao tiếp ấy có tác dụng tương phản; ở chỗ nó không gây ra một cái ǵ gắn bó mà là một thứ phủ nhận dữ dội.

 

Đối với Thánh Phaolô, việc gắn bó với Giáo Hội là những ǵ cần phải được Chúa Kitô trực tiếp nhúng tay vào can thiệp, Đấng, khi tỏ ḿnh cho Thánh Phaolô trên đường đi Đamascô, đă đồng hóa ḿnh với Giáo Hội và làm cho Thánh Phaolô hiểu rằng bách hại Giáo Hội là bách hại Người là Chúa.

 

Đúng vậy, Chúa Kitô Phục Sinh đă nói với Thánh Phaolô, kẻ bách hăi Giáo Hội rằng: ‘Saolê, Saolê, tại sao ngươi lại bách hại Ta chứ?’ (Acts 9:4). Nơi việc bách hại Giáo Hội là ngài đă bách hại Chúa Kitô. Bấy giờ Thánh Phaolô đă hoán cải trở về với Chúa Kitô và với Giáo Hội.

 

Như thế, người ta hiểu được lư do tại sao Giáo Hội lại là những ǵ hết sức sống động nơi ư nghĩ, trong tâm hồn và qua hoạt động của Thánh Phaolô. Trước hết, Giáo Hội hiện diện khi ngài thực sự thành lập nhiều Giáo Hội  ở các thành phố khác nhau, những nơi ngài đă đến như một nhà truyền  bá phúc âm hóa. Khi ngài nói về ‘mối lo toan đối với tất cả mọi Giáo Hội’ của ngài (2Cor 11:28) là ngài nghĩ đến các cộng đồng Kitô Giáo khác nhau được thiết lập qua gịng thời gian ở Galatia, Ionia, Macedonia và Achaia.

 

Một số trong những Giáo Hội ấy cũng đă làm cho ngài cảm thấy âu lo và không hài ḷng, như đă xẩy ra chẳng hạn với các Giáo Hội ở Galatia, những nơi ngài đă thấy ‘quay sang một thứ phúc âm khác’ (Gal 1:6), một điều mà ngài quyết liệt chống đối. Tuy nhiên, ngài đă cảm thấy gắn bó với các cộng đồng ngài đă thiết lập, không phải bằng một cách thức lạnh lùng và quan liêu, mà là thiết tha và hăng say.

 

Bới thế mà, chẳng hạn, ngài đă bày tỏ cùng Kitô hữu giáo đoàn Philiphê như ‘những người anh em của tôi, những người tôi mến thương và mong mỏi, là niềm vui và là vinh dự của tôi’ (4:1). Vào những lần khác ngài đă so sánh các cộng đồng khác nhau với một loại thư huấn dụ đặc biệt: ‘Chính anh em là bức thư huấn dụ của chúng tôi, được viết trong tâm can của anh em, để cho tất cả mọi người thấy mà đọc’ (2Cor 3:2). Trong những lần khác, khi hặp gỡ họ, ngài đă tỏ ra cho họ thấy được một thứ cảm thức chân thực và xứng hợp chẳng những về t́nh phụ tử mà c̣n t́nh mẫu tử của ngài, khi ngài hướng về những ai được ngài nài nỉ ngỏ lời cùng họ ar82ng: ‘hỡi các con nhỏ của cha, những đứa con cha lại quặn quại lâm bồn cho tới khi Chúa Kitô được h́nh thành nơi các con!’ (Gal 4:19; cũng xem 1Cor 4:14-15; 1Thes 2:7-8).

 

Trong các bức thư của ḿnh, Thánh Phaolô cũng dẫn giải cho chúng ta biết giáo huấn của ngài về Giáo Hội như vậy nữa. Rơ ràng nhất là câu ngài định nghĩa sáng tạo về Giáo Hội là ‘thân  ḿn h của Chúa Kitô’, một câu định nghĩa chúng ta không t́m thấy nơi các tác  giả Kitô Giáo khác trong thế kỷ đầu tiên (x 1Cor 12:27; Eph 4:12, 5:30; Col 1:24). Chúng ta thấy được cái nền tảng sâu xa nhất của việc định danh lạ lùng này về Giáo Hội ở tính cách bí tích của thân ḿnh Chúa Kitô.

 

Thánh Phaolô nói: ‘V́ chỉ có một tấm bánh duy nhất, chúng ta dù nhiều cũng chỉ là một thân thể duy nhất, v́ tất cả chúng ta đều tham phần vào cùng một tấm bánh duy nhất’ (1Cor 10:17). Nơi chính Thánh Thể, Chúa Kitô đă ban cho chúng ta thân ḿnh của Người và làm cho chúng ta thành thân thể của Người. Bởi thế mà Thánh Phaolô đă nói cùng tín hữu giáo đoàn Galata rằng: ‘anh em tất cả đều là một trong Chúa Kitô’ (3:28).

 

Với tất cả những ư nghĩa đó, Thánh Phaolô làm cho chúng ta tiến đến chỗ hiểu được chẳng những một thứ thuộc về Chúa Kitô của Giáo Hội, mà c̣n một h́nh thức tương hợp và đồng hóa của Giáo Hội với chính bản thân Chúa Kitô nữa. Thế nên, chính từ chỗ này mới xuất phát ra những ǵ là trọng đại và cao quí của Giáo Hội, tức là của tất cả chúng ta là phần tử của Giáo Hội. Việc chúng ta làm chi thể của Chúa Kitô hầu như là một thứ vươn dài việc bản thân Người hiện diện trên thế giới này vậy. Và dĩ nhiên, do đó mà chúng ta có nhiệm vụ phải sống ḥa hợp với Chúa Kitô.

 

Cũng từ chỗ này mới có những lời huấn dụ của Thánh Phaolô về một số đặc sủng làm sinh động và làm nên cộng đồng Kitô hữu. Tất cả những đặc sủng ấy được qui về một mạch nguồn duy nhất, đó là Vị Thần Linh của Cha và Con, với ư thức rơ ràng là trong Giáo Hội không ai thiếu những đặc sủng ấy, v́, như Thánh Tông Đồ viết, ‘Thần Linh biểu lộ nơi mỗi một người cho ích lợi chung’ (1Cor 12:7).

 

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất đó là tất cả mọi đặc sủng đều ḥa hợp với nhau để xây dựng cộng đồng này và chúng không được trở thành một động lực xé lẻ. Để đạt được mục đích ấy, Thánh Phaolô đă hùng biện đặt vấn đề: ‘Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ? (1Cor 1:13). Ngài biết rơ ràng và dạy chúng ta rằng cần phải ‘bào tŕ mối hiệp nhất của Thần Linh bằng mối giây an b́nh. Chỉ c ó một thân thể và một Thần Linh duy nhất, như anh em được kêu gọi tới một niềm hy vọng duy nhất là những ǵ thuộc về ơn gọi của anh em’ (Eph 4:3-4).

 

Hiển nhiên là việc nhấn mạnh tới nhu cầu c ần phải hiệp nhất không có nghĩa chủ trương rằng người ta cần phải làm cho đời sống của xă hội trở thành đồng nhất và chỉ theo một đường lối hoạt động duy nhất mà thôi. Thánh Phaolô cũng đă dạy ở chỗ khác rằng: ‘Đừng dập tắt Thần Linh’ (1Thes 5:19), tức là, hăy quảng đại giành chỗ cho năng lực không thể thấy trước được của những biểu lộ đặc sủng của Thần Linh, Đấng b ao giờ cũng là một nguồn nghị lực và sinh lực mới.

 

Tuy nhiên, nếu cần phải có một tiêu chuển đặc biệt th́ đối với Thánh Phaolô, đó là việc cùng nhau xây dựng: ‘Hăy thực hiện tất cả mọi sự để dựng xây’ (1Cor 14:26). Hết mọi sự cần phải được đồng tâm hiệp lực xây dựng một cách thứ tự, chẳng những không bị bí tắc mà c̣n không không xẩy ra những đụng độ hay khóc than.

 

Một trong những bức thư của Thánh Phaolô c̣n đi tới chỗ tŕnh bày Giáo Hội như là hiền thê của Chúa Kitô (x Eph 5:21-33). Như thế là ngài đă lập lại một ẩn tựï tiên tri, một thứ ẩn tự nói về dân Yến Duyên là hiền thê của Vị Thiên Chúa của Giao Ước (x Hos 2:4-21; Is 54:5-8). Bởi vậy ngài đă diễn tả về các mối liên hệ thân t́nh giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Người, ở chỗ v́ Giáo Hội là đối tượng của t́nh yêu ưu ái nhất của Chúa Kitô, hay v́ t́nh yêu cần phải hỗ tương, mà chúng ta, v́ là phần tử của Giáo Hội, cần phải chứng tỏ ḷng hăng say trung thành của ḿnh đối với Người.

 

Bởi vậy, để kết luận, vấn đề ở đây là mối liên hệ hiệp thông: một mối liên hệ – một cách nào đó – ‘theo hàng dọc’ giữa Chúa Giêsu Kitô với tất cả chúng ta, song cũng ‘theo hàng ngang’ giữa tất cả những ai đặc biệt trên thế giới này ở sự kiện ‘kêu tên Chúa Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta’ (1Cor 1:2).

 

Đó là điụnh nghĩa của chúng ta: Chún g ta là thành phần của những ai gọi tên Chúa Giêsu Kitô. Bởi thế, chún g ta hiểu được những ǵ chúng ta cần phải mong muốn làm hoàn tất những ǵ được chính Thánh Phalô mong mỏi khi ngài viết cho tín hữu giáo đoàn Côrintô rằng: ‘Thế nhưng, nếu tất cả đều nói tiên tri, mà một người vô tín ngưỡng hay một kẻ lạ mặt bước vào, th́ họ cảm thấy họ bị khiển trách, bị mọi người xét xử. Những điều thầm kín trong tâm  can của họ bị bộc lộ ra, nên họ sẽ sấp ḿnh xuống mà thờ lậy Thiên Chúa mà tuyên xưng rằng Thiên Chúa thật sự ở giữa quí vị’ (1Cor 14:24-25).

 

Đó là những ǵ cần phải có nơi các cuộc qui tụ phụng vụ của chúng ta. Một người không phải là Kitô hữu bước vào một trong những cuộc tụ tập của chúng ta cuối cùng có thể nói được rằng: ‘Thiên Chúa thực sự ở giữa anh chị em’. Chúng ta hăy xin Chúa để chúng ta sống được như thế, trong mối hiệp thông với Chúa Kitô và hiệp thông với chính chúng ta.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 22/11/2006 

 

 

 

"Thánh Phaolô biết ngài 'được kêu gọi để trở thành một vị tông đồ'”

 

 

ĐTC Bin Đức XVI – Bài Ging cho Giờ Kinh Tối Thứ Năm 28/6/2007 ti Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành

 

Quí Hồng Y,

Quí Huynh khả kính trong Hàng Giáo Phẩm và trong hàng Linh Mc,

Anh Chị Em thân mến,

 

Ở Giờ Kinh Tối đầu cho Lễ Trọng Kính Thánh Phêrô và Phaolô này, chúng ta hăy tri ân tưởng nhớ tới hai vị Tông Đồ đă đổ máu ḿnh ra, với máu ca rt nhiu chng nhân Phúc Âm khác, đă làm cho Giáo Hi Rôma sinh hoa kết trái.

 

(ĐTC ngỏ lời chào các thành phn đặc bit ở 4 đoạn ngắn)

 

Đền thờ này, một đền thờ đă tng long trng tổ chức nhng biến cố đại kết quan trng, nhc nhở chúng ta về việc quan trng biết bao cùng nhau cu nguyn để nài xin ơn hip nht, mt mi hip nht đă được Thánh Phêrô và Phaolô hiến đời sng ca ḿnh cho đến độ hy sinh tận tuyt bng máu đào ca ḿnh.

 

Truyền thng rt xa xưa từ thời các vị tông đồ đă cho rng cuc gp gỡ cuối cùng ca các vị trước cuc tử đạo ca hai vị thực sự xẩy ra không xa nơi chn này: hai vị được cho rng đă ôm ly nhau và chúc lành cho nhau. Ở cửa chính ca Đền Thờ này, các vị có một bc ha chung, vi nhng cnh ca cả hai cuộc tử đạo.

 

Như thế, từ ban đầu, truyn thng Kitô Giáo đă coi Thánh Phêrô và Phaolô bt khả tách biệt, cho dù m i vị có một sứ vụ khác nhau cần phi hoàn thành.

 

Thánh Phêrô đă tuyên xưng đức tin ca ḿnh vào Chúa Kitô trước; Thánh Phaolô được ban cho khả năng để đào sâu nhng sự phong phú của đức tin y. Thánh Phêrô đă thành lp cng đồng tiên khi ca thành phn Kitô hu xut thân từ Dân Tuyển Chn; Thánh Phaolô trở thành Vị Tông Đồ Dân Ngoại. Vi nhng đoàn sng khác nhau, các vị đều hot động cho cùng mt lư tưởng, đó là xây dng Giáo Hi ca Chúa Kitô. 

 

Trong Phần Các Bài Đọc, phụng vụ cống hiến cho việc suy niệm của chúng ta bản văn nổi tiếng của Thánh Âu Quốc Tinh: “Một ngày duy nhất được chỉ định để cử hành việc tử đạo của hai Vị Tông Đồ. Thế nhưng, hai vị này là một. Mặc dù cuộc tử đạo của hai vị xẩy ra vào những ngày khác nhau, các vị cũng là một. Thánh Phêrô trước, Thán h Phaolô sau. Chúng ta cử hành ngày lễ này là ngày được trở nên linh thánh đối với chúng ta nhờ máu của những vị Tông Đố ấy” (Sermon 295, 7, 8).

 

Và Thánh lêô Cả đă nhận định như sau: “Về các công lênh và nhân đức của các vị, những ǵ vượt lên trên tất cả khả năng nói năng, chúng ta không được tách biệt chúng, v́ các vị được chọn như nhau, khó nhọc như nhau, chết đi như nhau” (In natali apostol., 69, 7).

 

Ở Rôma, từ những thế kỷ đầu tiên, mối liên hệ nối kết Thánh Phêrô và Phaolô lại trong sứ vụ của các vị đă có một ư nghĩa rất đặc biệt. Như Romulus và Remus, hai người anh  em thần thoại này được cho là hạ sinh ra Thánh Phố đây thế nào, th́ Thánh Phêrô và Phaolô cũng được coi là những vị thành lập nên Giáo Hội ở Rôma như thế.

 

Nói về Thành Phố này liên quan tới đề tài ấy, Thánh Lêô Cả đă nói: “Các vị này là những Người Cha thánh thiện và là những mục tử thực sự của anh chị em, những vị đă cống hiến cho anh chị em những khai báo anh chị em được kể vào số những vương quốc thiên đ́nh, và đă xây dựng anh chị em dưới sự che chở bao bọc tốt đẹp hơn và hạnh phúc hơn các vị, những vị có ḷng nhiệt thành là nền tảng đầu tiên cho những bức tường thành của anh chị em” (Sermon 82, 7).

 

Tuy nhiên, về lănh vực nhân loại, các vị có khác nhau, và cho dù có những căng thẳng nơi mối liên hệ của các vị, Thánh Phêrô và Phaolô vẫn là những sáng lập viên của Thánh Phố mới mẻ này, một biểu hiệu cho một đường lối mới mẻ và chân thực trong việc làm huynh đệ, một đường lối khả dĩ nhờ Phúc Âm Chúa Giêsu Kitô.

 

V́ thế, có thể nói rằng Giáo Hội ở Rôma đang cử hành ngày sinh nhật của ḿnh hôm nay đây, v́ chính hai vị Tông Đồ này đă đặt nền tảng cho nó vậy.

 

Hơn thế nữa, Rôma trong thời đại của chúng ta nhận thấy một cách ư thức hơn cả sứ vụ của ḿnh lẫn sự cao cả của ḿnh. Thánh Gioan Chrysostom đă viết: “Tầng trời không quá sáng ngời khi mặt trời tỏa ánh quang của nó, cho bằng Thành Phố Rôma khi tỏa hai ánh sáng này (Thánh Phêrô và Phaolô) tới tất cả mọi phần đất trên thế giới… Bởi vậy, tôi ca ngợi Thành Phố này… v́ những cột trụ này của Giáo Hội” (Homily on St Paul's Epistle to the Romans, 32, 24).

 

Chúng ta sẽ tưởng niệm đặc biệt Thánh Phêrô ngày mai, cử hành Hy Tế Thần Linh ở Đền Thờ Vatican, đền thờ được xây ở địa điểm ngài tử đạo. Tối nay, chúng ta hướng về Thánh Phaolô, vị có hài cốt được ǵn giữ hết sức cung kính ở Đền Thờ này.

 

Ở đầu Bức Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, như chúng ta vừa nghe, Thánh Phaolô đă chào cộng đồng Rôma, tự giới thiệu ḿnh là “một người tôi tớ của Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi trở thành một vị tông đồ” (1:1). Thánh Phaolô sử dụng từ ngữ “tôi tớ”, theo Tiếng Hy Lạp là doulos, để ám chỉ một mối liên hệ hoàn toàn trọn vẹn thuộc về Chúa Giêsu; ngoài ra, nó là từ ngữ được dịch từ tiếng ‘ebed’ của Do Thái, nhờ đó ám chỉ những người tôi tớ cao cả đă được Thiên Chúa chọn lựa và kêu gọi tới một sứ vụ quan trọng và đặc biệt.

 

Thánh Phaolô biết ngài “được kêu gọi để trở thành một vị tông đồ”, tức là, ngài đă không cho ḿnh là một ứng viên, cũng không phải là một bổ nhiệm của loài người, mà hoàn toàn do lời kêu gọi và việc tuyển chọn thần linh.

 

Vị Tông Đồ cho Chư Dân này lập lại mấy lần ở các Bức Thư của ḿnh rằng trọn cuộc sống của ngài là hoa trái của ân  sủng nhân hậu nhưng không của Thiên Chúa (cf. I Cor 15: 9-10; II Cor 4: 1; Gal 1: 15). Ngài được tuyển chọn để loan báo “Phúc Âm của Thiên Chúa” (Rm 1:1), để gieo văi tin mừng về Ân Huệ thần linh là việc ḥa giải trong Chúa Kitô giữa con người với Thiên Chúa, với chính họ và với kẻ khác.

 

Căn cứ vào các Bức Thư của ngài, chúng ta biết rằng Thánh Phaolô không phải là một tay thuyết giảng giỏi giang; trái lại, ngài đă giống như Moisen và Giêrêmia thiếu khả năng ăn nói. Thành phần thù địch của ngài đă nói về ngài rằng: “Sự hiện diện về thể lư của ngài th́ yếu đuối, và khả năng nói năng của ngài chẳng có ǵ đáng kể” (II Cor 10: 10).

 

Những thành quả tông đồ phi thường mà ngài đă có thể chiếm được, bởi thế, không thể qui về những pháp thuật ngôn từ nẩy lửa hay biện giải và truyền giáo tài ba.

 

Sự thành đạt nơi việc tông đồ của ngài trước hết lệ thuộc vào việc ngài dấn thân loan báo Phúc Âm hoàn toàn v́ Chúa Kitô; một sự dấn thân không sợ hiểm nghèo, khó khăn hay bạch hại.  

 

Ngài đă viết cho Kitô hữu Rôma rằng: “Dù chết hay sống, dù là các thiên thần hay các thế lực, dù là hiện tại hay tương lai, dù là các quyền năng, dù đỉnh cao hay vực thẳm, dù bất cứ sự ǵ khác nơi tất cả tạo vật, sẽ không thể nào phân rẽ tôi khỏi t́nh yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (8:38-39).

 

Từ điều này chúng ta có thể rút tỉa được một bài học đặc biệt quan trọng đối với hết mọi Kitô hữu. Hoạt động của Giáo Hội chỉ khả tín và hiệu nghiệm chỉ khi nào những ai thuộc về Giáo Hội sẵn sàng đích thân trả giá cho ḷng trung thành của ḿnh với Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh. Khi sự sẵn sàng này bị hụt hẫng th́ lư lẽ chủ yếu về sự thật là những ǵ chính Giáo Hội phải tùy thuộc cũng bị thiếu vắng.

 

Anh chị em thân mến, như trong thời sơ khai, cả ngày nay nữa, Chúa Kitô cần đến những tông đồ sẵn sàng hy sinh bản thân ḿnh. Người cần những chứng nhân và tử đạo như Thánh Phaolô. Thánh Phaolô, một tên bách hại Kitô hữu trước đó, khi bị ngă xuống đất trước ánh sáng thần linh chói ḷa trên đường đi Damascus, đă không ngần ngại đứng sang bên của Đấng Tử Giá và theo Người cách dứt khoát. Ngài đă sống và làm việc cho Chúa Kitô, v́ Người ngài đă chịu khổ và đă chết đi. Ngày nay gương sáng của ngài hợp thời biết bao!

 

Chính v́ lư do này tôi hân hoan chính thức tuyên bố rằng chúng ta sẽ giành một Năm Mừng đặc biệt Thánh Tông Đồ Phaolô, từ ngày 28/6/2008 tới 29/6/2009, nhân dịp hai ngàn năm sinh nhật của ngài, ngày sinh nhật được các sử gia cho rằng ở vào giữa khoảng năm 7 và 10 sau Chúa Giáng Sinh.

 

Sẽ có thể cử hành “Năm Thánh Phaolô” này một cách đặc biệt ở Rôma là nơi quan tài bằng đá, một quan tài, theo ư kiến nhất trí của các chuyên gia và truyền thống không thể chối căi, giữ hài tích của Tông Đồ Phaolô, đă được bảo tŕ ở bên dưới Bàn Thờ Giáo Tông nơi Đền Thờ này qua 20 thế kỷ.

 

Như thế sẽ có thể thực hiện một loạt những biến cố về phụng vụ, về văn hóa và đại kết ở Đền Thờ Giáo Tông này cũng như tại Đan Viện B iển Đức sát cạnh, cùng với những hoạt động khác nhau về mục vụ và xă hội, tất cả đều theo chiều hướng linh đạo của Thánh Phaolô.

 

Ngoài ra, phải đặc biệt chú trọng tới những cuộc hành hương thống hối được tổ chức tới viếng mộ vị Tông Đồ này để t́m thấy nơi ấy ích lợi thiêng liêng. Cũng phải cổ vơ phát động những hội nghị học hỏi và những ấn hành đặc biệt để phổ biến rộng răi hơn bao giờ hết kho tàng mênh mông chất chứa nơi giáo huấn này, một gia sản thật sự của nhân lolại được Chúa Kitô cứu chuộc.

 

Ngoài ra, ở các nơi trên thế giới, những sáng kiến tương tự sẽ được áp dụng ở các giáo phận, các đền thánh và những nơi thờ phượng, bởi thành phần Tu Sĩ và những tổ chức giáo dục cũng như những trung tâm trợ giúp xă hội mang tên Thánh Phaolô hay được ảnh hưởng bởi ngài và giáo huấn của ngài.

 

Sau hếtm cần phải chú ư tới một khía cạnh đặc biệt trong thời gian cử hành những thời điểm khác nhau của việc mừng kỷ niệm 2000 năm Thánh Phaolô: tôi muốn nói tới chiều kích đại kết. Vị Tông Đồ Chư Dân này, vị đặc biệt đă dấn thân mang Tin Mừng cho tất cả mọi dân tộc, đă không ngừng  hoạt động cho mối hiệp nhất và ḥa hợp giữa tất cả mọi Kitô hữu.

 

Xin ngài thương hướng dẫn và bảo vệ chúng ta trong việc cử hành hai ngàn năm này, giúp chúng ta tiến bộ trong việc khiêm tốn và chân thành t́m kiếm mối hiệp nhất trọn vẹn của tất cả mọi phần tử thuộc Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Amen.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2007/documents/hf_ben-xvi_hom_20070628_vespri_en.html