BỐN VỊ THÁNH ĐƯỢC TÔN PHONG TẠI VATICAN NGÀY 18/5/2003

 

 

THÁNH JOSEPH SEBASTIAN PELCZAR

(1842-1924)

Giuseppe Sebastiano Pelczar (1842-1924)

"Thánh Joseph Sebastian Pelczar đă thể hiện đức tin của ḿnh nơi ơn gọi cứu độ phổ quát... khẩu hiệu của Ngài là 'Tất cả mọi sự cho Thánh Tâm Chúa Giêsu , nhờ bàn tay vô nhiễm của Rất Thánh Trinh Nữ Maria'. Ngài đă hiểu việc Ngài hiến thân cho Chúa Kitô trước hết là việc đáp ứng t́nh yêu của Người được ẩn thân và tỏ hiện nơi bí tích Thánh Thể".

(Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, bài giảng phong thánh 18/5/2003)

 

Thánh Joseph Sebastian Pelczar được sinh vào trần gian ngày 17/1/1842 ở một tỉnh nhỏ Korczyna ở miền tây nam nước Balan. Ngài được dưỡng dục theo truyền thống đạo đức Balan. Sau hai năm học vỡ ḷng ở địa phương, Ngài được cha mẹ gửi học ở Rzeszow. Ngay từ hồi c̣n nhỏ Ngài đă biết dấn thân phụng sự Thiên Chúa, như Ngài viết: "Những thứ lư tưởng trần gian qua đi. Tôi thấy được lư tưởng của đời sống trong sự hy sinh, và lư tưởng của hy sinh nơi thiên chức linh mục". Sau khi học hết lớp sáu, Ngài đă nhập tiểu chủng viện. Năm 1860 Ngài đă bắt đầu thần học ở đại chủng viện Przemysl.

Được chịu chức linh mục ngày 17/7/1864, Ngài được sai phái tới Sambor, một giáo xứ trong giáo phận Przemuys để làm cha sở họ đạo này 1 năm rưỡi. Ngài được sai đi Rôma năm 1866 để theo học 2 năm tại Đại Học Rôma (Collegium Romanum) mà bây giờ gọi là Đại Học Viện Gregorian, và Học Viện Thánh Apollinaris mà bây giờ goị là Đại Học Viện Lateranô. Thời gian theo học tại giáo đô Rôma là thời gian chẳng những thêm kiến thức cho Ngài mà c̣n thêm cả ḷng yêu mến Giáo Hội và Đức Thánh Cha nơi Ngài nữa. Lấy được bằng tiến sĩ thần học và giáo luật xong, Ngài trở về Balan, và sau một thời gian ngắn làm cha sở họ đạo ở Wojutycze và Sambor, Ngài giữ vai tṛ giáo sư của Đại Chủng Viện Przemysl (1869-1877). Sau đó Ngài được chỉ định làm giáo sư của Viện Đại Học Jagellonian ở Krakow (1877-1899). Với tư cách giáo sư và Khoa Trưởng Thần Học, Ngài được tiếng là một con người khôn ngoan và thức giả, một con người có óc tổ chức và thân thiện với giới trẻ. Ngài trở thành viện trưởng của viện đại học này (1882-1883).

Trong việc nỗ lực sống trọn lư tưởng của "một vị linh mục Balan dấn thân cho dân chúng", Ngài không chỉ hoạt động về văn học, mà c̣n dấn thân tham gia vào những sinh hoạt xă hội và bác ái khác, như Hội Thánh Vinhsơn Phaolô và Hội Giáo Dục Con Người. Đối với Hội Giáo Dục Con Người, Ngài đă làm chủ tịch 16 năm. Trong thời gian này, Ngài đă thiết lập cả hằng trăm thư viện, thuyết giảng vô số lần, phát hành và phổ biến hơn một ngàn cuốn sách, và mở trường dạy cho thành phần tôi tớ. Vào năm 1891, Ngài lập Hội Huynh Đệ Đức Bà, Nữ Vương Vinh Hiển Balan. Ngoài những hoạt động về tôn giáo, Hội Huynh Đệ này được thành lập để chăm sóc người nghèo, mồ côi, những người làm công trả nợ và những người làm tôi, nhất là những người bệnh tật và thất nghiệp.

Ngài đă thấy rằng những vấn đề xẩy ra vào thời điểm của ḿnh thực sự là cơ hội để thấy được ư muốn của Thiên Chúa. Vào năm 1894, Ngài đă lập Ḍng Chị Em Tôi Tớ Trái Tim Rất Thánh Chúa Giêsu ở Krakow, với mục đích truyền bá Vương Quốc yêu thương của Trái Tim Chúa Giêsu. Ngài mong muốn Chị Em nữ tu phải trở thành dấu hiệu và dụng cụ của t́nh yêu này đối với những người con gái, những người bệnh tật cũng như tất cả những ai cần thiết.

Năm năm sau, tức vào năm 1899, Ngài được bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Przemysl. Sau đó, vào năm 1900, sau khi Giám Mục L. Solecki qua đời, Ngài được chỉ định thay thế. Ngài đă giữ chức vụ chủ chăn nhân lành của giáo phận Przemysl 25 năm. Mặc dù sức khỏe yếu kém, Ngài thường đến viếng thăm các giáo xứ, đồng thời cũng lưu ư đến cả việc huấn luyện về luân lư và kiến thức cho hàng giáo sĩ. Ngài làm gương trong việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa và Mẹ Maria. Ngài chuyên chú đến việc tôn sùng Thánh Thể và khuyến khích làm việc này. Nhờ nỗ lực của Ngài, một số nhà thờ và nguyện đường đă được xây cất và nhiều nhà thờ đă được tái thiết. Bất chấp những hoàn cảnh bất lợi về chính trị bấy giờ, Ngài cũng triệu tập ba công đồng giáo phận. Ngài nhấn mạnh đến việc cần phải áp dụng giáo thuyết về xă hội của Đức Lêô XIII.

Ngài đă hoàn tất ư muốn của Thiên Chúa cho dù có nhiều trở ngại, và đă qua đời trong hương thơm thánh đức vào đêm 28/3/1924. Ngài được ĐTC Gioan Phaolô II phong chân phước ngày 2/6/1991 ở Rzeszow Balan. Thi thể của Ngài đang yên nghỉ trong Vương Cung Thánh Đường giáo phận Przemysl. Lễ kính Ngài được cử hành vào ngày 19/1 hằng năm.

 


M. Orsola (Giulia) Ledĩchowska

(1865-1939)

M. Orsola (Giulia) Ledóchowska (1865-1939)

"Thánh Ursula Ledochowska đă nói với mọi người bằng ngôn ngữ yêu thương được thể hiện qua các việc làm. Thánh nhân đă đi khắp Nước Nga, những xứ sớ Bắc Âu, Pháp và Ư... một vị tông đồ của việc tân truyền bá phúc âm hóa... cho thấy bằng cả đời và hoạt động của ḿnh tầm quan trọng liên lỉ, tính cách sáng tạo và hiệu lực của t́nh yêu theo Phúc Âm. Tất cả chúng ta có thể học nơi Ngài việc cùng với Chúa Giêsu kiến tạo nên một thế giới nhân bản hơn, một thế giới nh́n nhận hoàn toàn hơn nữa những giá trị như công lư, tự do, t́nh đoàn kết và ḥa b́nh".

(Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, bài giảng phong thánh 18/5/2003)
 

"Chỉ cần tôi biết làm sao để yêu thương, để nung nấu và để thiêu đốt bản thân ḿnh trong yêu thương". Trước khi khấn ḍng, người tập sinh 24 tuổi ḍng Ursuline ở Krakow là Giulia Ledĩchowska đă viết lên những lời này. Vào ngày khấn ḍng, Ngài lấy tên ḍng là 'Maria Ursula của Chúa Giêsu', danh xưng này đă chi phối cả cuộc đời của thánh nhân. Trong gia tộc của Ngài, cả về đằng nội (một gia đ́nh Balan cổ kính) cũng như ngoại (gốc Thụy Sĩ thuộc triều đại Salis), có nhiều chính trị gia, quân nhân, viên chức Hội Thánh và tu tŕ là những người có dính dáng tới lịch sử Âu Châu và Giáo Hội. Ngài được dưỡng dục trong một gia đ́nh đông anh chị em nhưng có kỷ cương và thương mến nhau. Ba người con đầu, kể cả thánh nhân, đă sống đời tận hiến, trong đó có Maria Teresa (được phong chân phước năm 1975) thành lập 'Hội của Thánh Phêrô Claver' và người em trai là Vladimiro làm tổng đại diện của các tu sĩ Ḍng Tên.

Thánh M. Ursula đă sống ở tu viện ở Krakow 21 năm. T́nh yêu của thánh nhân đối với Chúa, tài giáo dục của Ngài và cảm quan đối với những nhu cầu của thành phần trẻ trong những điều kiện đang biến đổi về xă hội, chính trị và luân lư vào thời ấy đă làm Ngài được chú ư tới. Khi phụ nữ được quyền học đại học th́ Ngài đă tiến hành một cách có tổ chức ngôi nhà trọ đầu tiên ở Balan cho sinh viên nữ giới, nơi duy nhất họ có thể cảm thấy an toàn để sống và học hành cũng như để được giáo dục đàng hoàng về đạo hạnh. Ḷng ước vọng này, được Đức Piô X chúc lành, đă tăng sức cho Ngài tiến vào giữa ḷng Nước Nga là nơi thù hận với Giáo Hội. Với bộ áo thường dân, cùng với một chị nữ tu khác, Ngài đă ra đi đến Petersburg, nơi đời sống tu tŕ bị cấm cách, Ngài không biết rằng Ngài đă đâm đầu vào một đích điểm vô định và Thánh Linh sẽ dẫn Ngài trên những con đường Ngài chưa từng tiên liệu.

Ở Petersburg, Ngài cùng với cộng đồng nữ tu đang phát triển đều đặn (chẳng bao lâu được trở thành một hội ḍng Ursuline độc lập) sống một cách bí mật, và mặc dù bị liên lỉ theo dơi bởi cảnh sát ch́m, họ cũng thực hiện một dự án giáo dục và tôn giáo lớn là những ǵ cũng nhắm tới việc khuyến khích những mối liên hệ giữa Balan và những người Nga.

Khi chiến tranh bùng nổ vào năm 1914, Thánh Nhân rời Nga, nhắm đến Stockholm, để rồi trong những chuyến đi ở Bắc Âu (Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy), hoạt động của Ngài chẳng những về giáo dục mà c̣n cả sinh hoạt ở Giáo Hội địa phương nữa, qua việc trợ giúp những nạn nhân chiến tranh và công cuộc đại kết. Nhà Ngài ở với các nữ tu của Ngài trở thành một nơi qui tụ các người khác nhau về khuynh hướng chính trị và tôn giáo. Có lần được hỏi khuynh hướng chính trị của ḿnh, Ngài trả lời lập tức 'chính trị của tôi là yêu thương'.

Vào năm 1920, Ngài cùng với chị em của Ngài và một số lớn trẻ em mồ côi của những người di dân trở về Balan. Trung Tâm Tông Đồ biến thành nữ tu viện độc lập cho 'Các Nữ Tu Ursulilnes của Thánh Tâm Sầu Khổ Chúa Giêsu'. Linh đạo của hội ḍng này nhắm đến việc chiêm ngưỡng t́nh yêu cứu độ của Chúa Kitô và tham dự vào sứ vụ của Ngài bằng những dự án giáo dục và phục vụ người khác, nhất là thành phần đau khổ, cô đơn và bị bỏ rơi đang t́m kiếm ư nghĩa cuộc đời. Thánh nhân đă huấn luyện các chị em của ḿnh trong việc yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và t́m kiếm Ngài nơi hết mọi con người cũng như nơi tất cả Tạo Sinh.

Hội ḍng này đă phát triển nhanh chóng. Các cộng đồng nữ tu Ursuline ở Balan cũng như ở các ranh giới phía đông xứ sở này là những nơi nghèo nàn, đa chủng và đa giáo đă được thiết lập. Năm 1928, Nhà Mẹ đă được thiết lập ở Rôma cùng với một nhà trọ cho những em gái không được may mắn về kinh tế, để giúp cho họ có cơ hội giao tiếp với sự phong phú về tinh thần và tôn giáo giữa ḷng Giáo Hội và nền văn minh Âu Châu. Các nữ tu bắt đầu hoạt động ở những khu ngoại ô Rôma nghèo nàn. Năm 1930, các nữ tu ḍng này đă đi theo những người em gái đi t́m việc làm và thiết lập ở Pháp quốc. Bất cứ nơi nào có thể th́ vị thánh này đều thiết lập những trung tâm giáo dục và dạy nghề. Ngài đă gửi các nữ tu đi dạy giáo lư và hoạt động ở những khu vực nghèo khổ trong thành phố. Ngài đă viết các sách vở và bài viết về trẻ em và giới trẻ.

Ngài đă khởi xướng và duy tŕ các tổ chức giáo hội cho trẻ em (Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể), cho giới trẻ và cho phụ nữ. Ngài đă chủ động tham dự vào sinh hoạt của Giáo Hội cũng như của Quốc Gia và được cả Giáo Hội và Quốc Gia khen tặng. Ngài qua đời tại Rôma ngày 29/5/1939 và được dân chúng nói rằng "Ngài chết như một vị thánh". ĐTC Gioan Phaolô II đă phong chân phước cho Ngài ngày 20/6/1983 ở Poznan.



THÁNH MARIA DE MATTIAS

(1805 - 1866)

Maria De Mattias (1805-1866)

"Thánh Maria De Mattias được mầu nhiệm Thập Gíá sâu xa chi phối. Nơi Ngài, t́nh yêu đối với Chúa Giêsu tử giá được chuyển thành ḷng thương các linh hồn và ,ột cuộc dấn thân khiêm tốn cho anh chị em, cho 'tha nhân yêu dấu', như Ngài thích nói như thế".

(Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, bài giảng phong thánh 18/5/2003)


Thánh Maria De Mattias vào đời ngày 4/2/1805 ở Vallecorsa, một tỉnh ở miền cực nam của Quốc Gia Giáo Hoàng, trong khu vực địa dư Frosinone. Gia đ́nh của Ngài không phải là không giầu có và học thức, cho dù bấy giờ phụ nữ bị cấm không được học, hay không có đức tin sâu xa.

Nhờ trao đổi với cha của ḿnh, Ngài đă học biết và thấm nhuần chẳng những các chân lư đức tin mà c̣n cả những biến cố và những nhân vật trong Sách Thánh nữa. Cha của thánh nhân đọc Thánh Kinh cho Ngài khi Ngài c̣n rất nhỏ, và Ngài đă phát triển một t́nh yêu mạnh mẽ đối với Chúa Giêsu, Con Chiên bị hy tế v́ phần rỗi loài người. Tất cả những điều này xẩy ra khi tỉnh Vallecorsa và các khu vực lân cận trải qua một giai đoạn (1810-1825) trộm cướp thê thảm. Nơi tâm hồn của thánh nhân thật sự nẩy lên một sự so sánh giữa máu con người đổ ra v́ hận thù và trả thù với máu của Chúa Kitô đổ ra v́ yêu thương, một thứ Máu cứu độ.

Theo giai cấp xă hội của ḿnh, không được giáo dục chính thức và không giáo tiếp ǵ với bên ngoài, thánh nhân đă sống cuộc đời thơ ấu và dậy th́ khép kín, chỉ để ư tới nhan sắc của ḿnh mà thôi. Thế nhưng, khi lên 16 hay 17 tuổi, thánh nhân bắt đầu t́m kiếm ư nghĩa cuộc đời, và cảm thấy cần phải có một t́nh yêu vô biên. Để rồi, cũng qua việc trao đổi với người cha, vị được thánh nhân bộc lộ cái tăm tối nội tâm của ḿnh, và qua việc thánh nhân xin Đức Mẹ 'ban ơn soi sáng', mà Thiên Chúa đă cho Ngài cảm nghiệm được cái đẹp của t́nh yêu Ngài một cách 'diệu huyền'. T́nh yêu ấy được bộc lộ hoàn toàn nơi Chúa Giêsu Tử Giá, nơi Chúa Kitô đổ hết Máu ḿnh ra.

Cảm nghiệm này là nguồn mạch, là sức mạnh và là động lực thúc đẩy thánh nhân đi khắp các nẻo đường Ư Quốc "để làm cho mọi người biết đến t́nh yêu êm ái của Cha Trên Trời" như Ngài nói, hay của "Giêsu T́nh Yêu Tử Giá". Ngài quan niệm rằng việc canh tân xă hội được bắt nguồn từ con tim con người, và một con người được biến đổi khi họ hiểu được mỗi một người cao quí biết bao trước nhan Thiên Chúa, mỗi một người được yêu thương biết bao... Chúa Giêsu đă đổ hết Máu của Người ra để cứu độ nhân loại.

Với cảm nghiệm ấy, thánh nhân đă hết sức dẫn tất cả mọi người, trẻ cũng như già, đến chỗ khám phá ra những ǵ đă được mạc khải cho Ngài và biến đổi Ngài. Ngài cũng cảm nghiệm thấy rằng việc biến đổi này đều có thể xẩy ra cho tất cả mọi người khi mà, vào năm 1822, tức khi Ngài mới 17 tuổi, linh mục Gaspar Del Bufalo (nay đă là "Thánh"), đến giảng pḥng ở Vallecorsa. Thánh nhân đă thấy dân chúng trong thành thay đổi. Từ lúc đó trong tâm can của thánh nhân cảm thấy ước vọng muốn làm những ǵ Cha Gasper đang làm bấy giờ.

Theo sự hướng dẫn của những đồng bạn của Thánh Gaspar, Cha Giovanni Merlini (nay là Chân Phước), thánh nhân đă lập ở Acuto (Frosinone) Hội Ḍng Chị Em Tôn Thờ Máu Chúa Kitô vào ngày 4/3/1834, năm ngài 29 tuổi. Ngài đă được Giám Mục địa phương là Giuseppe Maria Lais giáo phận Anagni kêu gọi phụ trách dạy dỗ các em gái trẻ. Ngài đă tự học đọc và viết.

Tuy nhiên, một con người ôm ấp giấc mộng canh tân xă hội và thế giới không thể chỉ phục vụ ở học đường mà thôi. Ngài c̣n qui tụ các bà mẹ và các trẻ nam lại để dạy giáo lư cho họ, để thúc giục họ yêu mến Chúa Giêsu và để dạy họ sống cuộc sống Kitô hữu theo bậc sống của họ. Những người nam, thành phần Ngài không thể nói chuyện theo tục lệ bấy giờ, tự động đến nghe Ngài, cho dù âm thầm kín đáo. Thành phần mục đồng, bị bỏ bê, xin Ngài chỉ giáo cho, cho dù vào lúc chiều tối. Dân chúng kéo đến nghe Ngài chỉ dẫn.

Thế là thánh nhân, từ t́nh trạng là một đứa con gái e thẹn và khép kín, đă trở thành một nhà giảng thuyết lôi cuốn các em gái nhỏ, người lớn, thành phần quê mùa và học thức, giáo dân lẫn giáo sĩ. Chính là v́, khi nói về Chúa Giêsu và những mầu nhiệm đức tin, Ngài đă nói như thể Ngài đă đích thân thấy được những thực tại ấy. Ước muốn nung nấu của thánh nhân là "không một giọt Máu Thần Linh nào bị mất đi"; mà phải tiến tới tất cả mọi tội nhân để thanh tẩy họ, nhờ đó, được rửa trong ǵong sông thương xót, họ sẽ tái khám phá ra con đường chân chính dẫn đến ḥa b́nh và hiệp nhất nơi con người.

Ḷng nhiệt thành này đă thu hút nhiều phụ nữ trẻ trung, và qua họ, thánh nhân đă mở khoảng 70 cộng đồng trong đời của Ngài, trong đó có 3 cộng đồng ở Đức và Anh. Hầu hết đều ở những tỉnh lẻ ở Trung Ư, trừ ở Rôma, nơi Ngài đă được Đức Piô IX kêu gọi thành lập Tiếp Viện Thánh Luigi và học đường ở Civitavecchia.

Cuộc đời của thánh nhân là cuộc đời sống với một ước vọng duy nhất để "làm hài ḷng Chúa Giêsu", Đấng đáp cướp đoạt trái tim của Ngài từ hồi c̣n trẻ, và là một cuộc đời sống trong việc hân hoan dấn thân để cứu 'tha nhân yêu dấu' khỏi bị vô tri về mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa đồi với nhân loại. Tất cả những điều này khiến thánh nhân vận dụng tất cả nghị lực của ḿnh; không chịu thua khi gặp những bất măn hay khó khăn; bao giờ cũng hoạt động bằng t́nh yêu mến Giáo Hội và niềm hiệp thông sâu xa với Giáo Hội địa phương và hoàn vũ.

Thánh nhân qua đời ở Rôma ngày 20/8/1866 và được chôn táng ở nghĩa trang Verano theo ư của Đức Piô IX, Vị chọn mồ cho thánh nhân và cho khắc câu của tiên tri Êzêkiên: "Hỡi xương khô, hăy nghe lời Chúa". Đức Piô XII đă phong chân phước cho thánh nhân ngày 1/10/1950.

 

THÁNH VIRGINIA CENTURIONE BRACELLI

(1587-1651)

Virginia Centurione vedova Bracelli (1587-1651)

"Thánh Virginia Centurione Bracelli, khi bỏ ra ngoài thân phận cao quí của ḿnh, đă hiến thân phục vụ thành phần sống bên lề xă hội một cách hết sức vô tư. Cái hiệu lực nơi việc tông đồ của Ngài phát xuất từ niềm gắn bó vô điều kiện với ư muốn thần linh là những ǵ Ngài ấp ủ bằng việc chiêm niệm không ngừng và chăm chú lắng nghe lời Chúa"

(Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, bài giảng phong thánh 18/5/2003)


Thánh Virginia Centurione Bracelli vào đời ngày 2/4/1587 ở Genoa, từ gia đ́nh của Giorgio Genturione, một vương tước của Nước Cộng Ḥa này vào năm 1621-1622, và Lelia Spinola. Cả hai thuộc gia tộc quí phái. Thánh nhân được rửa tội sau khi được hạ sinh hai ngày, và được thụ huấn về tôn giáo và văn học nơi người mẹ và người kèm riêng.

Ngài chẳng mấy chốc cảm thấy nhu cầu sống đời đan sĩ, nhưng đă phải nhượng bộ cho ư muốn cương quyết của thân phụ để lập gia đ́nh với Gaspare Grimaldi Bracelli ngày 10/12/1602. Gia đ́nh chồng của thánh nhân vừa danh giá vừa giầu sang, nhưng anh ta lại lao đầu vào cờ bạc và đời sống buông tuồng. Thánh nhân sinh hạ hai người con gái là Lelia và Isabella.

Đời sống gia đ́nh của thánh nhân kéo dài không lâu. Chuyện xẩy ra là, mặc dù lập gai đ́nh và đóng vai tṛ làm cha, vẫn không bỏ những thỏa măn của ḿnh là những ǵ đă sớm kết thúc cuộc đời của anh ta. Tuy nhiên, thánh nhân đă hết sức nhẫn nại, nguyện cầu và thương mến, cố gắng thuyết phục chồng ḿnh sống đời nết na đức hạnh. Tiếc thay, chàng đă ngă bệnh và qua đời ngày 13/6/1607 ở Alessandria, song đă chết trong ơn nghĩa Chúa nhờ người vợ tốt lành ủi an nâng đỡ.

Thánh nhân bị góa bụa vào năm 20 tuổi, và đă tuyên khấn trọn đời thanh tịnh, chối từ tái hôn theo ư thân phụ. Thánh nhân đă sống ở nhà mẹ chồng, coi sóc việc giáo dục và quản trị sản vật cho con cái, cùng chuyên tâm cầu nguyện và làm việc bác ái.

Vào năm 1610, Ngài thực sự cảm thấy ơn gọi đặc biệt "phụng sự Chúa nơi người nghèo". Mặc dù thánh nhân bị người cha kiềm kẹp rất ngặt và không bao giờ lơ là việc chăm sóc cho gia đ́nh, thánh nhân cũng bắt đầu dấn thân cho thành phần thiếu thốn. Ngài đích thân giúp đỡ người nghèo bằng cách chia sẻ một nửa phần gia tài giầu có của Ngài hay bằng tổ chức bác ái.

Cuối cùng thánh nhân đă ổn định tốt đẹp việc lập gia đ́nh cho hai đứa con gái của Ngài, sau đó đă hoàn toàn dấn thân phục vụ nhu cầu của các trẻ em bị bỏ rơi, người già cả, bệnh tật, và nâng đỡ đời sống của thành phần sống bên lề xă hội.

Vào mùa thu năm 1624-1625, chiến tranh bùng nổ giữa Cộng Ḥa Liguorian và Vương Tước Savoy được Pháp đỡ đầu, t́nh h́nh làm tăng thêm t́nh trạng thất nghiệp và đói kém, khiến thánh nhân tiến đến chỗ chứa chấp 15 người trẻ bị bỏ rơi đầu tiên, để rồi, khi con số tị nạn tăng thêm trong thành, thánh nhân đă có thể cung cấp cho họ tất cả những ǵ họ cần, nhất là thành phần phụ nữ nghèo.

Vào Tháng 8/1625, người mẹ chồng của thánh nhân qua đời, thánh nhân chẳng những tiếp nhận những người trẻ mà c̣n đích thân ra ngoài thành, hầu hết đến những khu vực u ám để t́m kiếm thành phần nghèo nàn túng thiếu và bị bỏ rơi.

Để giải quyết t́nh trạng nghèo nàn tăng phát, thánh nhân đă lập "Cento Signore della Misericordia Protettrici dei Poveri di Gés Cristo", với sự hợp tác của tổ chức cư trú "Otto Signore della Misericordia". Ngài lănh nhiệm vụ đặc biệt kiểm soát những nhu cầu của người nghèo, nhất là thành phần e dè hổ thẹn bằng cách đến viếng thăm nhà của họ.

Để phát triển công việc chứa chấp những người trẻ, nhất là vào thời gian dịch hạch và đói kém năm 1629-1630, thánh nhân buộc phải thuê mướn một nữ tu viện bỏ trống ở Monte Calvario, nơi thánh nhân đă cùng với thành phần được Ngài phục vụ di chuyển đến vào ngày 13/4/1631, và được đặt dưới sự che chở của Đức Mẹ Nương Thân. Ba năm sau, Tổ chức này phát triển thành 3 nhà chứa được 300 bệnh nhân. Bởi thế, thánh nhân nghĩ rằng đă đến lúc xin Thượng Viện Cộng Hóa chính thức công nhận và được chấp thuận vào ngày 13/12/1635. Những người được thánh nhân phục vụ ở Nhà Đức Mẹ Nương Thân đă trở thành những "người con gái" tuyệt vời của Ngài, thành phần được Ngài chia cơm sẻ áo. Ngài đă dạy họ giáo lư và huấn luyện họ làm việc để họ có thể tự lập mưu sinh.

Thánh nhân đă bỏ ư định mua nữ tu viện Monte Calvario v́ nó quá mắc, thay vào đó, Ngài đă mua hai dinh thự gần Ngọn Đồi của Carignano, nơi mà, với việc xây thêm một dinh thự mới làm Nhà Thờ dâng hiến cho Đức Mẹ Nương Thân, đă trở thành Nhà Mẹ của Tổ Chức này.

Tinh thần đă thúc đẩy thánh nhân thành lập Tổ Chức này đă được tổng quan tŕnh bày nơi Bản Luật được h́nh thành vào khoảng thời từ năm 1644 đến năm 1650. Bản Luật này xác định là tất cả mọi người cư trú phải làm nên một Tổ Chức suy nhất của Đức Mẹ Nương Thân, dưới sự coi sóc và quản trị của những Bảo Viên (thành phần thường dân có thế giá do Thượng Viện Cộng Ḥa chỉ định); Bản Luật cũng xác định về sự phân biệt giữa thành phần "nữ tử" mặc áo ḍng, và thành phần "nữ tử" không mặc áo ḍng, nhưng đều phải sống chung với nhau, dù khấn hay không khấn, như những đan sĩ tuân giữ hết sức đức tuân phục và khó nghèo, làm việc và nguyện cầu. Ngoài ra, họ cũng phải sẵn sàng cộng tác làm việc ở các bệnh viện công, coi việc ấy như là một lời khấn.

Trong khi đó, Tổ Chức này được chia làm hai Hội Ḍng Tu Tŕ: "Chị Em Đức Bà Nương Thân ở Núi Canvê" (Suore di Nostra Signora del Refugio de Monte Calvario), và "Nữ Tử Đức Bà ở Núi Canvê" (Figlie di Nostra Signora al Monte Calvario).

Sau việc bổ nhiệm những vị Bảo Viên (3/7/1641), thành phần được coi như là những vị bề trên thực thụ của Tổ Chức này, thánh nhân đă tách ḿnh khỏi việc quản trị nhà ấy. Ngài vâng theo những nhu cầu của họ và tác hành theo sự đồng ư của họ, dù trong việc chấp nhận thêm một số những người trẻ cần được giúp đỡ. Ngài đă sống như một "nữ tử" hèn mọn nhất hoàn toàn dấn thân làm những công việc trong nhà, đi xin ăn buổi sáng và buổi tối. Ngài là mẹ của mọi người, nhất là đối với thành phần bệnh nhân, cống hiến cho họ hầu hết những ǵ Ngài có.

Trong những năm trước đó, thánh nhân đă tổ chức một nhóm liên kết hoạt động xă hội để chữa trị các thứ căn gốc sự dữ cũng như để ngăn ngừa những đổ vỡ, ở chỗ thành phần bệnh nhân và tật nguyền được đưa vào bệnh viện của Tổ Chức; những người có quyền lực được gửi đi làm việc; phụ nữ được huấn luyện thêu thùa may vá, và trẻ em buộc phải đến trường học.

T́nh trạng tăng thêm những loại hoạt động và những nỗ lực, thành phần hợp tác với thánh nhân bị giảm sút, nhất là những phụ nữ thuộc giai cấp trung lưu và thượng lưu, thành phần sợ bị liên lụy đến danh thơm tiếng tốt của họ trong việc giao tiếp với thành phần hư hỏng có được một người hướng đạo cao sang cũng là một vị thánh như vậy.

Bị những vị Phụ Tá và Bảo Viên của Tổ Chức bỏ rơi, thành phần bị chính quyền tước mất quyền hành coi sóc Tổ Chức ấy, thánh nhân, bấy giờ sức đă suy yếu, đă lănh trách nhiệm đối với các chị em Nhà ở Carignano. Nhờ đó đă lấy lại được quyền lực biệt lập của nó.

Vào ngày 25/3/1637, thánh nhân mong muốn chính phủ Cộng Ḥa chọn Đức Trinh Nữ làm Bảo Viên. Ngài đă đă nhúng tay can thiệp để làm ổn định những cuộc giằng co đẫm máu nổi lên bởi những lư do nhỏ mọn giữa các gia đ́nh danh giá và thành phần hiệp sĩ. Vào năm 1647, thánh nhân đă ḥa giải được vụ xẩy ra giữa Ṭa Tổng Giám Mục và Chính Quyền Cộng Ḥa, gây ra bởi cuộc xung khắc giữa hai bên về vấn đề thế giá.

Thánh nhân được ơn ngất trí, thị kiến, nghe tiếng nội tâm và các ơn thần bí khác. Ngài chết vào ngày 15/12/1651 hưởng thọ 64 tuổi. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đạ phong chân phước cho thánh nhân dịp Ngài tông du Genoa ngày 22/9/1985.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, chuyển dịch từ màn điện toán của Ṭa Thánh Vatican

(Bốn vị hiển thánh lập ḍng trên đây, 2 Balan và 2 Ư, đă nâng tổng số các vị thánh được tôn phong trong giáo triều gần 25 năm của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên tới 489 vị)