Thánh Nimatullah Al-Hardini

 

 

Nimatullah Kassab Al-Hardini (1808-1858)

 

Một Đan Sĩ Labanon chăm sóc cho những người Hồi Giáo và Kitô hữu
 

Vị thánh thứ ba của nước Labanon: Thánh Nimatullah Al-Hardini


 

Cha Paolo Azzi, vị cáo thỉnh viên phong thánh của vị chân phước này, đă cho Đài Phát Thanh Vatican biết rằng:


“Hết sức chú ư tới bức tranh muôn sắc của cộng đồng dân chúng Labanon, trong việc thực hiện sứ vụ của ḿnh, ngài không phân biệt giữa những người Hồi Giáo, người Druses hay Kitô Giáo. Cái chính yếu đối với ngài đó là việc cứu các linh hồn như ngài t́m cách cứu lấy chính linh hồn của ngài vậy”.


Vị thánh này được thế giới gọi là Youssef Kassab, sinh ở Hardine, miền bắc nước Labanon, vào năm 1808. Vào năm 20 tuổi, ngài đă vào chủng viện ở Đan Viện Thánh Antôn ở Qozhaya, lấy tên Nimatullah, nghĩa là (ân sủng của Thiên Chúa), và được thụ phong linh mục ở Kfifan vào Ngày Giáng Sinh năm 1833.


Vị thánh này đă sống chiều kích chiêm niệm theo ơn gọi của ḿnh trong cuộc sống thường nhật bằng t́nh yêu thương anh em đan sĩ của ḿnh cũng như văn hóa của ḿnh. Thật vậy, “sự thông thái của ngài không phải là những ǵ chỉ bo bo ở nơi bản thân ngài, mà là một cởi mở truyền giáo hướng đến những ai cần đến đức bác ái và kiến thức của ngài”.


Đó là lư do ngài đầu tiên đă mở một trường dạy học ở Kifkan rồi sau đó ở Bhersaf để hướng dẫn giới trẻ miễn phí.


Ngoài ra, “ngài c̣n đóng một vai tṛ nổi bật trong các hoạt động bác ái trong cuộc thảm sát Kitô hữu năm 1845. Ngài ở với mọi gia đ́nh và cô nhi; ngài đă giúp đỡ họ, dạy dỗ họ và nguyện cầu cho họ”.


Dưới thời Đế Quốc Ottoman, t́nh h́nh dân sự ở Labanon gặp khó khăn như t́nh h́nh của Giáo Hội Maronite cũng như của ḍng ngài. Chính vào thời gian này mà ngài đă lấy khẩu hiệu: “Kẻ thông thái nhất là kẻ cứu lấy linh hồn ḿnh”.


Thánh nhân đă ngày đêm bỏ giờ ra tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể và liên tục cầu Kinh Mân Côi. Ở vào tuổi 43, ngài được Ṭa Thánh bổ nhiệm làm phụ tá tổng quyền ḍng của ngài 3 năm. Ngài c̣n được ủy thác cho nhiệm vụ này hai lần sau đó nữa. V́ ḷng khiêm nhượng, ngài từ chối không nhận việc bổ nhiệm làm vị tổng đan viện phụ.


Là một giáo sư thần học của đại chủng viện, ngài đă dạy cho các chủng sinh theo học làm linh mục, trong đó có Charbel Makhlouf, một dự thánh sẽ được Giáo Hội tuyên phong trong tương lai, người chủng sinh thánh đức đă ở bên cạnh ngài trong giờ ngài lâm chung.

 

Theo vị linh mục cáo thỉnh viên th́ sứ điệp của vị thánh này là một sứ điệp “yêu thương, an b́nh và hy vọng. Quốc gia của Thánh Nimatullah là một quốc gia luôn sống một Tuần Thánh liên tục. Nó đă theo đuổi con đường hy vọng để thắng vượt t́nh trạng thất vọng”.


Việc phong thánh cho ngài “là một bức thư ngỏ gửi cho nước Labanon là quốc gia đă từng chịu nhiều khổ đau, cũng như cho nhân dân Labanon là những người đang cần đến ḥa b́nh, và cho mảnh đất tử đạo Trung Đông vậy”.

 

Ngài đă chết năm 50 tuổi ở Đan Viện Kfifan vào ngày 14/12/1858. Đơn xin phong chân phước cho ngài được đệ tŕnh Ṭa Thánh từ năm 1926, cùng với đơn của đan sĩ Charbel (da94 được phong thánh năm 1977) và Rafqa (một nữ đan sĩ thuộc giáo hội Labanon theo Lễ Nghi Maronite cũng đă được phong thánh năm 2001). Ngài đă được phong chân phước ngày 10/5/1998 và được chính vị Giáo Hoàng phong chân phước là Đức Gioan Phaolô II phong thánh ngày 16/5/2004, Chúa Nhật VI Phục Sinh, với những lời trong bải giảng của ĐTC như sau:


 

"Là một con người cầu nguyện, bằng ḷng thiết tha mến yêu Thánh Thể là Đấng ngài hằng tôn thờ lâu giờ, Thánh Nimatullah Kassab Al-Hardini là gương mẫu cho các đan sĩ Ḍng Maronite Labanon, cho anh em Labanon của ngài cũng như cho Kitô hữu khắp thế giới. Ngài đă hoàn toàn hiến ḿnh cho Chúa bằng một đời sống hết sức bỏ ḿnh, chứng tỏ cho thấy rằng chỉ có t́nh yêu Thiên Chúa mới là mạch nguồn duy nhất của niềm vui và hạnh phúc đối với con người mà thôi. Ngài đă dứt khoát t́m kiếm và theo Chúa Kitô là thày và là Chúa của ngài.

"Khi tiếp đón những người anh em của ḿnh, ngài đă băng bó và chữa lành nhiều thương tích nơi ḷng của các người đồng thời của ngài, làm chứng cho họ thấy t́nh thương của Thiên Chúa. Chớ ǵ gương sáng của ngài chiếu giăi con đường chúng ta đi, tác động đặc biệt nơi giới trẻ một tấm ḷng khát khao Thiên Chúa và sự thánh thiện của Ngài, trong việc loan truyền cho thế giới của chúng ta đây ánh sáng Phúc Âm!"

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu được Zenit phổ biến ngày Thứ Sáu 14/5/2004