Chúa
Nhật 23 Thường Niên
Chiêm
Ngắm Lời Chúa là Thần Linh
A.
"Chúa Giêsu nói với các môn đệ: 'Nếu anh em của
các con lầm lỗi phạm đến các con, hãy đi
chỉ cho họ thấy lỗi lầm của họ, song
hãy làm điều này giữa hai người với nhau thôi...
Nếu họ không nghe, hãy mời thêm kẻ khác nữa...
Nếu họ cũng bất chấp, hãy đem chuyện
trình lên Giáo Hội... Thày bảo thật các con, điều
gì các con tuyên bố cầm buộc dưới đất cũng
sẽ bị cầm buộc ở trên trời, và điều
gì các con tuyên bố cởi mở dưới đất cũng
sẽ được cởi mở ở trên trời...
Nơi nào có hai hay ba người nhân danh Thày mà tụ
họp lại thì có Thày ở giữa họ'": "Con
người ơi, ngươi là kẻ Ta đã chỉ định
làm người canh chừng nhà -ch-Diên' khi ngươi nghe
thấy Ta nói điều gì thì ngươi cũng hãy
cảnh giác họ cho Ta. Nếu Ta nói rằng người
gian ác hắn sẽ phải chết, mà ngươi không nói để
chinh phục hắn bỏ đường lối của
hắn, thì hắn sẽ chết vì tội lỗi của
mình, song Ta sẽ bắt ngươi trả lẽ về
cái chết của hắn... Bằng nếu ngươi
cảnh giác... ngươi sẽ cứu được
mình" - "Ước chi hôm nay các bạn nghe
tiếng Người: Các ngươi đừng cứng
lòng" (câu đáp ca này cũng là câu đáp ca của Chúa
Nhật 19 Thường Niên năm C, trang 417, "các ngươi"
đúng ra cũng được xưng hô là "các bạn"
mới thống nhất toàn câu)' "Đừng mắc nợ
ai điều gì trừ món nợ buộc chúng ta phải yêu
thương nhau. Ai yêu thương tha nhân là làm trọn
lề luật... Bất cứ giới luật nào đi
nữa thì tất cả cũng được tóm lại
trong điều này, đó là 'các người phải yêu thương
tha nhân như bản thân mình'. Yêu thương sẽ không bao
giờ phạm đến tha nhân, vì yêu thương là hoàn
tất lề luật".
B-
"Chúa Giêsu bỏ lãnh địa Tyrô, qua ngả Siđôn,
về lại Biển Galilêa, vào địa hạt
Thập Tỉnh. Có một số dân mang đến cho Người
một người điếc không nói được mà
xin Người đặt tay trên người này. Chúa Giêsu
dẫn người ấy ra khỏi đám đông. Người
đặt những ngón tay của Người vào hai tai của
người ấy, rồi nhổ nước bọt,
chạm vào lưỡi người ấy' đoạn Người
ngước lên trời mà than thở. Người nói với
người ấy: 'Ephphatha!' (tức là 'Hãy mở ra').
Lập tức hai tai của người ấy nghe được,
lưỡi hết cứng và bắt đầu nói được
bình thường": "Hãy nói với những ai tâm can
khiếp hãi: Hãy vững mạnh, đừng sợ! Đây
là Thiên Chúa của các người, Ngài đến để
hộ vực' Ngài đến cứu vớt các người
bằng đắp đổi thần linh. Bấy giờ
mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc
sẽ nghe thấy' bấy giờ người què sẽ
nhẩy như nai, rồi lưỡi người câm
sẽ ca hát..." - "Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi
khen Chúa"' "Anh em ơi, đức tin của anh em nơi
Chúa Giêsu Kitô vinh hiển không cho phép chúng ta được
thiên vị... Thiên Chúa đã không chọn những kẻ
nghèo hèn trước mắt thế gian để trở nên
giầu có trong đức tin và là những kẻ thừa
tự vương quốc mà Ngài đã hứa cho những
ai yêu mến Ngài hay sao?"
C-
"Có một lần, khi một đám rất đông dân chúng
ở với Chúa Giêsu, Người quay lại với
họ mà nói: 'Nếu ai đến theo Tôi mà không chối
bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em mình, ngay cả chính
bản thân mình nữa, thì họ không thể nào theo Tôi. Ai không
vác thập giá mình mà theo Tôi không thể nào là môn đệ của
Tôi... Không ai trong qúi vị có thể là môn đệ của
Tôi nếu họ không từ bỏ tất cả những
gì mình có'": "Con người nào biết được
ý nghĩ của Thiên Chúa, hay ai có thể hiểu được
điều Thiên Chúa dự định?... Hoặc ai đã từng
biết được ý nghĩ của Ngài, trừ khi Ngài
ban cho Đức Khôn Ngoan và từ trên cao sai thánh trí của
Ngài xuống? Và như thế, những đường nẻo
của những kẻ ở trên trái đất mới được
ngay thẳng" - "Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng tôi
dung thân, từ đời nọ trải qua đời
kia"' "Tôi là Phaolô, khâm sai của Đức Kitô mà nay
vì Người là một tù nhân, kêu gọi ông cho đứa
con tôi sinh ra trong lúc tôi tù đày... Có lẽ nó xa cách ông một
thời gian vì lý do này: đó là để cho ông có thể mãi
mãi chiếm được nó, không phải là một tên nô
lệ nữa, mà còn hơn là một tên nô lệ, một người
anh em yêu dấu, yêu dấu đặc biệt đối với
tôi' và vì lúc ấy ông nhận biết nó vừa như là một
con người lại vừa là một con người ở
trong Chúa, mà nó là một người anh em đến như
thế nào đối với ông".
Cảm
Nghiệm Lời Chúa là Sự Sống:
"Thời gian đã
viên trọn. Triều Đại Thiên Chúa đã đến!
Hãy cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm"
(Phúc Âm Chúa Nhật 3 Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh
năm B), như trang 294 nhận định, "đó
là chủ đề của toàn Mùa Thường Niên Hậu
Phục Sinh, được thể hiện qua Phụng Vụ
Lời Chúa ở từng Chúa Nhật trong Mùa". Tuy nhiên,
như trang 417 phân tích và nhận định: "Giai đoạn
thứ ba của Mùa Thường Niên là 15 tuần nối
tiếp, tức kể từ Chúa Nhật 19 Mùa Thường
Niên Hậu Phục Sinh, cho đến Chúa Nhật 33 Thường
Niên Hậu Phục Sinh, một giai đoạn nhắm vào đề
tài: 'Hãy cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm', để
có thể đón chờ ngày Chúa Kitô đến lần thứ
hai, ý nghĩa của lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Nhật kết
thúc Mùa này". Bởi thế, theo Phụng Vụ Lời Chúa
của Chúa Nhật 23 Thường Niên tuần này thì
"cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm"
là việc Giáo Hội cần bảo toàn cho đúng đường
lối Chúa, là việc thể hiện đức tin qua đức
bác ái, và là việc từ bỏ tất cả những gì
mình có mà theo Chúa.
Trước
hết, "cải thiện đời sống và tin vào Phúc
Âm" là việc Giáo Hội cần bảo toàn cho đúng
đường lối Chúa, được chứng
thực qua Phụng Vụ Lời Chúa năm A. Điều
này đã được sáng tỏ hết sức rõ ràng
trong bài Phúc Âm, qua lời Chúa Giêsu dậy: "Nếu anh em của
các con lầm lỗi phạm đến các con, hãy đi
chỉ cho họ thấy lỗi lầm của họ".
Ở đây, nếu chỉ căn cứ vào nguyên câu văn
này thôi, Chúa Giêsu có vẻ mâu thuẫn về giáo huấn của
Người. Thật vậy, trong Bài Giảng Phúc Đức
trên núi, như bài Phúc Âm Chúa Nhật 7 Thường Niên Hậu
Giáng Sinh năm A nhắc đến, Chúa Giêsu đã dậy
các môn đệ: "Đừng chống lại khi bị
tổn thương. Hễ có ai tát má bên phải của các
con thì các con hãy chìa cả má bên kia cho họ nữa... Các con
hãy yêu thương kẻ thù địch của mình, hãy
cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các con". Thế
mà, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu lại dậy các môn đệ
hầu như ngược lại, khi Người bảo
các vị sửa lỗi cho "anh em" khi họ "lỗi
phạm đến các con". Hình thức sửa lỗi
cho nhau khi chính mình là nạn nhân thì không phải là một
hình thức "trả thù" hay sao? Chưa kể đến
tinh thần trọn lành, mới nói đến tinh thần
cao thượng tự nhiên thôi, thì việc "chống
lại (bằng hình thức sửa lỗi) khi bị tổn
thương ('phạm đến các con')" đã không
chấp nhận được rồi. Tuy nhiên, nếu xét
chung toàn bài Phúc Âm, ở đây Chúa Giêsu không có ý dậy các môn
đệ cách trả thù có vẻ đường đường
chính chính như vậy. Bởi vì, ở cuối bài Phúc Âm,
Người có nhấn mạnh đến thẩm quyền
tối cao của các vị: "Điều gì các con tuyên
bố cầm buộc dưới đất cũng sẽ
bị cầm buộc ở trên trời, và điều gì
các con tuyên bố cởi mở dưới đất cũng
sẽ được cởi mở ở trên trời".
Như thế, các môn đệ của Chúa Giêsu, nhất là
hàng giáo phẩm, như vai trò của tiên tri 'zekiên được
bài đọc thứ nhất nhắc đến, là thành
phần được "chỉ định làm người
canh chừng" Giáo Hội của Người, nên có trách
nhiệm phải sửa chữa những "lầm lỗi"
của "anh em mình" cũng là của các chi thể
trong nhiệm thể Giáo Hội. Ở đây, thẩm
quyền "tháo cởi" tối cao Chúa Giêsu không trao
riêng cho vị thủ lãnh tông đồ Phêrô nữa, như
trong bài Phúc Âm Chúa Nhật 21 Thường Niên năm A, mà là
trao chung cho toàn thể tông đồ đoàn. Thế nhưng,
phân tách thẩm quyền "tháo cởi" tối cao, đối
với riêng vị thủ lãnh Phêrô, vị đã tuyên xưng
đức tin về "Đức Kitô", thì Chúa Giêsu cũng
trao thẩm quyền "tháo cởi" tối cao liên quan đến
đức tin, như thực tế cho thấy, trong
việc các vị thừa kế thánh Phêrô sau ngài tuyên bố
các tín điều. Còn thẩm quyền "tháo cỡi"
tối cao đối với chung tông đồ đoàn,
thành phần Chúa Giêsu trao cho trách nhiệm "chỉ cho
thấy lầm lỗi", như trường hợp các
công đồng chung trong Giáo Hội trước đây đã
lên án các lạc thuyết. Truyền thống cần
phải triệu tập một công đồng chung để
lên án các lạc thuyết xưa kia trong Giáo Hội đã
thực hiện đúng lời Chúa Giêsu khuyên trong bài Phúc Âm hôm
nay: "Nếu họ cũng bất chấp, hãy đem
chuyện trình lên Giáo Hội". Nếu thẩm quyền
"tháo cởi" tối cao của vị Giáo Hoàng,
kế vị thánh Phêrô, đại diện cho Chúa Giêsu trên
trần gian, đối với đức tin chuyên chính là một
thẩm quyền "vô ngộ", bởi vì, như Chúa
Giêsu đã minh định, các ngài được
"mạc khải bởi Cha của Thày trên trời",
thì thẩm quyền "tháo cởi" tối cao của
chung hàng giáo phẩm trong Giáo Hội, (tất nhiên trong đó
phải có cả vị giáo hoàng mới có hiệu lực), được
thể hiện qua các công đồng chung, về việc
bảo vệ đức tin cho khỏi bị lệch
lạc sai trái, cũng là một thẩm quyền "vô ngộ",
bởi vì có chính Chúa Giêsu hiện diện ở giữa các
vị, như Người minh xác trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nơi
nào có hai hay ba người nhân danh Thày mà tụ họp
lại thì có Thày ở giữa họ". Trách nhiệm
sửa chữa của hàng giáo phẩm trong Giáo Hội
chẳng những liên quan đến phần rỗi đời
đời của các chi thể thuộc về Giáo Hội,
mà còn liên hệ đến chính phần rỗi của các
vị nữa, như lời Chúa phán trong bài đọc thứ
nhất: "Nếu Ta nói rằng người gian ác
hắn sẽ phải chết, mà ngươi không nói để
chinh phục hắn bỏ đường lối của
hắn, thì hắn sẽ chết vì tội lỗi của
mình, song Ta sẽ bắt ngươi trả lẽ về
cái chết của hắn... Bằng nếu ngươi
cảnh giác... ngươi sẽ cứu được
mình". Thế nhưng, trong việc sửa
chữa những gì sai trái với đức tin truyền
thống trong đàn chiên của mình, hàng giáo phẩm không phải
chỉ vì sợ trách nhiệm mà làm, hơn là vì, như bài đọc
thứ hai kêu gọi chung thành phần Kitô hữu: "Món nợ
buộc chúng ta phải yêu thương nhau". Chính nhờ
tinh thần và từ tinh thần "yêu thương là hoàn
tất lề luật" này, theo như giáo huấn của
bài đọc thứ hai, mà các con chiên lạc mới cho
thể nghe thấy tiếng kêu gọi thiết tha của
hàng giáo phẩm, được vang vọng qua câu đáp ca:
"Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người:
Các bạn đừng cứng lòng".
Sau nữa,
"cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm"
là việc thể hiện đức tin qua đức bác
ái, được chứng thực qua Phụng Vụ Lời
Chúa năm B. Điều này được sáng tỏ ngay
trong câu mở đầu của bài đọc thứ hai:
"Anh em ơi, đức tin của anh em nơi Chúa Giêsu
Kitô vinh hiển không cho phép chúng ta được thiên
vị". Tại sao? Nếu không phải tại chính nội
dung và đối tượng của đức tin, đó
là "Chúa Giêsu Kitô vinh hiển". Thật thế, nếu
chúng ta chỉ "cải thiện đời sống và tin
vào Phúc Âm" là chấp nhận một mình "Chúa Giêsu Kitô
vinh hiển" mà thôi, thì việc cải thiện đời
sống của chúng ta cũng như chính đức tin của
chúng ta, như bài đọc thứ hai cũng năm B
tuần tới xác định tiếp, là một "đức
tin vô hồn... thứ đức tin như thế không có sức
cứu ai cả". Đúng thế, "Chúa Giêsu Kitô vinh
hiển", tâm điểm của đức tin Kitô giáo,
không phải chỉ là một Đức Kitô ma quái do ý
muốn con người tạo ra, mà là một Đức
Kitô lịch sử cụ thể, một Đức Kitô được
bài đọc thứ nhất tiên báo: "Ngài đến để
hộ vực (như khi "Chúa Giêsu Kitô vinh hiển"
hiện ra với Saolê trên con đường Đamascô để
bảo vệ các Kitô hữu)' Ngài đến cứu vớt
các người bằng đắp đổi thần linh
(như đã làm cho Saolê đang bắt đạo thành Tông Đồ
Các Dân Ngoại). Bấy giờ mắt người mù
sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe
thấy (như Saolê ngã ngựa bị mù mà vẫn nhận
thức để đối đáp)' bấy giờ người
què sẽ nhẩy như nai, rồi lưỡi người
câm sẽ ca hát...". Bài Phúc Âm cũng chứng nhận một
"Chúa Giêsu Kitô vinh hiển" lịch sử được
tiên báo trước này, khi thuật lại việc Người
chữa "một người điếc không nói được..
Lập tức hai tai của người ấy nghe được,
lưỡi hết cứng và bắt đầu nói được
bình thường". Một khi đã chấp nhận một
"Chúa Giêsu Kitô vinh hiển" lịch sử này, đức
tin chuyên chính cũng buộc phải chấp nhận cả
thành phần "những kẻ nghèo hèn" được
bài đọc thứ hai kể đến, vì họ là thành
phần "Thiên Chúa đã... chọn... trước mắt
thế gian để trở nên giầu có trong đức
tin và là những kẻ thừa tự vương quốc
mà Ngài đã hứa cho những ai yêu mến Ngài...", một
thành phần mà, sau khi cảm nhận được ơn
Chúa, sẽ không thể nào không kêu lên đúng như câu đáp
ca tự xướng: "Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi
khen Chúa".
Sau hết,
"cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm"
là việc từ bỏ tất cả những gì mình có mà
theo Chúa, được chứng thực qua Phụng Vụ
Lời Chúa năm C. Điều này được sáng
tỏ ngay trong bài Phúc Âm, khi Chúa Giêsu quay lại nói với một
đám rất đông dân chúng: "Nếu ai đến theo
Tôi mà không chối bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em
mình, ngay cả chính bản thân mình nữa, thì họ không
thể nào theo Tôi. Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi không
thể nào là môn đệ của Tôi... Không ai trong qúi vị
có thể là môn đệ của Tôi nếu họ không từ
bỏ tất cả những gì mình có". Trong bài Phúc Âm
này, Chúa Giêsu nói với dân chúng chứ không nói riêng với các
môn đệ của Người. Thế nhưng, nếu
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người,
như trong bài Phúc Âm Chúa Nhật 22 Thường Niên năm
A, "Nếu ai muốn theo Ta, họ phải chối
bỏ chính mình đi, vác thập giá mình mà bắt đầu
theo bước chân Ta", thì ở đây, Người cũng
nói với thành phần dân chúng như vậy, về điều
kiện tối yếu và tối khẩn để họ cũng
có thể theo Người và làm môn đệ của Người.
Thật vậy, vì "Chúa Giêsu Kitô vinh hiển" là tâm điểm
của đức tin nói chung, mà bất cứ ai muốn
theo Người, tức chấp nhận Người, đều
phải, như Người minh xác và thúc giục trong bài Phúc
Âm Chúa Nhật 21 Thường Niên năm C, "gắng qua
cửa hẹp mà vào", đó là con đường khổ
nạn và tử giá duy nhất mà chính Người phải
trải qua, đến nỗi, ai không chịu hạ mình
xuống chui qua và đi vào sẽ không thể đến cùng
Cha. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đúng như bài đọc
thứ nhất viết: "Trừ khi Ngài ban cho Đức
Khôn Ngoan và từ trên cao sai thánh trí của Ngài xuống",
bằng không, sẽ chẳng có, theo xác quyết của bài đọc
thứ nhất: "Con người nào biết được
ý nghĩ của Thiên Chúa, hay ai có thể hiểu được
điều Thiên Chúa dự định", để
họ có thể như "Đức Kitô", Đấng
mà vị đại tông đồ Phêrô tuyên xưng trong Phúc Âm
năm A hai tuần trước, chấp nhận Ngài như
Ngài là và theo ý Ngài muốn. Đúng thế, trong bài đọc
thứ hai, nếu người chủ được
vị Tông Đồ Các Dân Ngoại là thánh Phaolô không
viết thư cho, để vạch vẽ cho thấy
"ý nghĩ của Thiên Chúa" cũng như "điều
Thiên Chúa dự định", qua những lời lẽ
chân thành thiết thực như: "Có lẽ nó xa cách ông một
thời gian vì lý do này: đó là để cho ông có thể mãi
mãi chiếm được nó, không phải là một tên nô
lệ nữa, mà còn hơn là một tên nô lệ, một người
anh em yêu dấu, yêu dấu đặc biệt đối với
tôi' và vì lúc ấy ông nhận biết nó vừa như là một
con người lại vừa là một con người ở
trong Chúa, mà nó là một người anh em đến như
thế nào đối với ông", ông chủ này chắc
chắn sẽ không bao giờ có thể dễ dàng chấp
nhận lại người nô lệ thù địch của
mình cả. Như thế, câu đáp ca ở đây thích hợp
cho ông chủ tiếp nhận người nô lệ của
mình, hơn là cho người nô lệ trở về với
chủ của mình: "Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng tôi
dung thân, từ đời nọ trải qua đời
kia". Bởi vì, nhờ có Chúa "là chỗ dung thân",
tức nhờ được "Ngài ban cho Đức Khôn
Ngoan và từ trên cao sai thánh trí của Ngài xuống", qua
lời khuyên dụ của thánh Phaolô như thế, ông mới
có thể sống đức tin, bằng cách chấp
nhận "những kẻ nghèo hèn trước mắt
thế gian" được Thiên Chúa chọn, như bài đọc
thứ hai năm B đã đề cập đến, mà điển
hình là tên nô lệ thù địch của mình làm "anh
em" mình.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, trong "Chúa Kitô:
Sự Sống Tái Sinh" và qua Bí Tích Rửa Tội, Cha đã
cho phép chúng con được đến với Cha, được
trở nên con cái của Cha, được ở trong
"nhà" của Cha là "Giáo Hội". Xin Cha cho chúng
con biết vì "Chúa Giêsu Kitô vinh hiển" là "Đầu"
của Giáo Hội mà chúng con là chi thể của Người,
"ban cho (chúng con) Đức Khôn Ngoan và thánh trí của
Ngài", để chúng con luôn biết "cải thiện
đời sống và tin vào Phúc Âm", bằng cách từ
bỏ mọi sự mình có để có thể gắn bó với
giáo huấn chính truyền của Giáo Hội, cũng như
để có thể mãi mãi hòa hợp và nên một với
nhau trong tình yêu "anh em" là con cái của cùng một Cha
trên trời.