Chúa Nhật 30 Thường Niên 

 

Chiêm Ngắm Lời Chúa là Thần Linh

 

A.        "Khi các người Pharisiêu nghe thấy Chúa Giêsu làm cho các người Sađucê phải ngậm miệng, họ họp lại thành một nhóm' rồi một người trong họ là luật sư hỏi người để cố gài bẫy Người rằng: 'Thưa Thày, giới răn nào trong luật pháp cao trọng nhất?' Chúa Giêsu nói với người ấy: 'Các ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa mình hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đó là giới răn trọng nhất và trên hết. Giới răn thứ hai cũng như thế: Các ngươi phải yêu thương tha nhân như bản thân mình. Toàn thể lề luật và cả các tiên tri đều dựa trên hai giới răn này": "Các ngươi không được hãm hại hay hà hiếp ngoại kiều, vì các ngươi đã một lần là những kẻ ngoại kiều ở đất Ai Cập... Nếu các ngươi lấy áo xống của tha nhân làm bảo chứng, các ngươi phải trả lại cho họ trước khi mặt trời lặn' vì chiếc áo này là đồ che thân duy nhất của họ. Bằng không họ lấy gì mà ngủ? Nếu họ kêu lên Ta, Ta sẽ nghe họ' vì Ta xót thương" - "Lạy Chúa là dũng lực tôi, tôi yêu mến Chúa"' "... Anh em trở nên những người theo gương chúng tôi cũng như theo gương Chúa, khi anh em bất chấp những thử thách lớn lao để nhận lãnh lời (Chúa) bằng niềm vui do Chúa Thánh Linh ban cho... Dân chúng ở các miền (như Macedonia và Achaia v.v.) thuật lại việc anh em tiếp đãi chúng tôi tử tế biết bao, cũng như việc anh em bỏ những ngẫu tượng mà trở về cùng Thiên Chúa, để phụng sự Ngài là Đấng hằng sống và là Thiên Chúa chân thật, và để mong chờ từ trời Người Con đã sống lại từ kẻ chết là Đức Giêsu, Đấng giải cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ xẩy ra".

B-        "Lúc Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và một đám đông dân chúng rời thành Giêricô thì gặp  một người ăn xin mù tên là Batimêô ('con của Timêô) ngồi ăn xin bên vệ đường. Nghe thấy có Chúa Giêsu Nazarét, hắn bắt đầu kêu lên: 'Hỡi Giêsu, Con vua Đavít, xin thương lấy tôi!' Nhiều người quát hắn để hắn im đi, song hắn càng la to hơn: 'Hỡi con vua Đavít, xin thương tôi cùng!' Bấy giờ Chúa Giêsu đứng lại mà nói: 'Hãy gọi hắn đến'... Hắn quăng áo xống sang một bên, nhẩy lên mà đến cùng Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi hắn: 'Con muốn Ta làm gì cho con?' Người mù đáp: 'Thưa Thày, con muốn được thấy'. Chúa Giêsu trả lời: 'Con được toại nguyện. Đức tin của con đã chữa con'. Lập tức hắn nhìn được và bắt đầu đi theo Người": "Vậy Chúa phán: '...Này, Ta sẽ đem họ (dân Ngài, số còn lại của -ch-Diên) về từ đất bắc' Ta sẽ tụ họp họ lại từ khắp cùng trái đất, trong đó có người mù và què quặt, những bà mẹ và những người mang thai... Ta sẽ dẫn chúng đến những khe suối nước, trên con đường bằng phẳng không làm vấp ngã một ai...'" - "Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan"' "Hết mọi vị thượng tế được chọn trong loài người để làm đại diện cho loài người trước mặt Thiên Chúa, mà hiến dâng lễ vật và hiến tế đền tội... Người ta không thể tự nhận cho mình vinh dự này, mà là được Thiên Chúa kêu gọi như Aaron. Cả Đức Kitô cũng không tự vinh thăng cho mình làm thượng tế' song Người nhận được bởi Đấng đã nói với Người rằng: 'Con là Con Cha' hôm nay Cha đã sinh ra Con'' như Ngài phán ở một nơi khác: 'Con là tư tế muôn đời theo phẩm hàm Melkisêđê'".

C-        "Chúa Giêsu nói dụ ngôn này với những ai tự đắc cho mình là kẻ công chính rồi khinh khi kẻ khác: 'Có hai người lên đền thờ cầu nguyện' một người Pharisiêu và một người thu thuế, Người Pharisiêu ngẩng đầu lên cầu nguyện: Ôi Thiên Chúa, tôi tạ ơn Ngài, vì tôi không như mọi người khác - trộm cắp, gian lận, ngoại tình - hay ngay cả như tên thu thuế kia. Tôi ăn chay một tuần hai lần. Tôi nộp thuế thập phân cho tất cả những gì tôi có. Còn người kia ở xa xa, không dám ngẩng mặt lên trời. Hắn chỉ biết đấm ngực mà rằng: Ôi Thiên Chúa, xin thương lấy tôi là kẻ tội lỗi. Hãy tin Ta đi, người này ra về thì được nên công chính, còn người kia thì không. Vì ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ bệ, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên'": "Chúa là một vị Thiên Chúa chính trực, Đấng không biết đến thiên vị là gì... Ai mà tự tình phụng sự Thiên Chúa thì được lắng nghe' lời nguyện cầu của họ thấu các tầng trời. Lời cầu của kẻ hèn mọn xuyên các tầng mây' nó không ngừng nghỉ cho tới khi đạt được mục tiêu của mình, nó cũng không rút lui cho tới khi Đấng Tối Cao đáp lại, xét xử công minh và xác nhận quyền lợi" - "Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe"' "...Vào buổi điều trần đầu tiên của cha ở pháp đường, không ai ở về phía của cha hết. Thật vậy, mọi người đều bỏ cha. Chớ chấp họ điều này! Thế nhưng Chúa đứng về phía của cha và ban cho cha sức mạnh, để qua cha mà việc rao giảng được hoàn tất và mọi dân nước nghe thấy phúc âm. Đó là lý do tại sao cha đã được cứu khỏi hàm sư tử. Chúa sẽ tiếp tục giải cứu cha khỏi mọi mưu đồ hạm hại cha và đem cha an toàn đến vương quốc thiên đình của Ngài".

 

 

Cảm Nghiệm Lời Chúa là Sự Sống:

 

"Thời gian đã viên trọn. Triều Đại Thiên Chúa đã đến! Hãy cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm" (Phúc Âm Chúa Nhật 3 Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh năm B),  như trang 294 nhận định, "đó là chủ đề của toàn Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, được thể hiện qua Phụng Vụ Lời Chúa ở từng Chúa Nhật trong Mùa". Tuy nhiên, như trang 417 phân tích và nhận định: "Giai đoạn thứ ba của Mùa Thường Niên là 15 tuần nối tiếp, tức kể từ Chúa Nhật 19 Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, cho đến Chúa Nhật 33 Thường Niên Hậu Phục Sinh, một giai đoạn nhắm vào đề tài: 'Hãy cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm', để có thể đón chờ ngày Chúa Kitô đến lần thứ hai, ý nghĩa của lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Nhật kết thúc Mùa này". Bởi thế, theo Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật 30 Thường Niên tuần này, thì "cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm" là việc kính mến Chúa trên hết mọi sự, là việc đi theo sự dẫn dắt của Chúa, và là việc hạ mình trước nhan Chúa.

 

Trước hết, "cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm" là việc  kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, được chứng thực qua Phụng Vụ Lời Chúa năm A. Điều này đã được biểu lộ trong bài Phúc Âm, qua câu Chúa Giêsu trả lời cho người luật sĩ về vấn nạn "giới răn nào trong luật pháp cao trọng nhất?": "Các ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa mình hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đó là giới răn trọng nhất và trên hết". Thế nhưng, để tỏ ra "yêu mến Chúa là Thiên Chúa mình hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn", con người cần phải thể hiện hai điều cụ thể, một tiêu cực và một tích cực sau đây. Về điều tiêu cực, họ cần phải giống như tín hữu giáo đoàn Thessanôlica trong bài đọc thứ hai, trong việc "bỏ những ngẫu tượng mà trở về cùng Thiên Chúa, để phụng sự Ngài là Đấng hằng sống và là Thiên Chúa chân thật, và để mong chờ từ trời Người Con đã sống lại từ kẻ chết là Đức Giêsu". Về điều tích cực, họ cần phải "yêu thương tha nhân như bản thân mình" nữa, đúng như lời Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm, cũng như lời Thiên Chúa truyền trong bài đọc thứ nhất: "Các ngươi không được hãm hại hay hà hiếp ngoại kiều, vì các ngươi đã một lần là những kẻ ngoại kiều ở đất Ai Cập". Có như thế, nghĩa là có "bỏ những ngẫu tượng mà trở về cùng Thiên Chúa", và có "yêu thương tha nhân như bản thân mình", con người mới có thể, "bằng niềm vui do Chúa Thánh Linh ban cho", như bài đọc thứ hai nói với Kitô hữu của giáo đoàn Thessalônica, kêu lên như câu đáp ca: "Lạy Chúa là dũng lực tôi, tôi yêu mến Chúa".

 

Sau nữa, "cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm" là việc  đi theo sự dẫn dắt của Chúa, được chứng thực qua Phụng Vụ Lời Chúa năm B. Điều này đã sáng tỏ hết sức rõ ràng trong cả bài đọc thứ nhất cũng như bài Phúc Âm. Trong bài đọc thứ nhất, chính Chúa đã dùng miệng tiên tri Giêrêmia mà phán: "Này, Ta sẽ đem họ (dân Ngài, số còn lại của -ch-Diên) về từ đất bắc' Ta sẽ tụ họp họ lại từ khắp cùng trái đất, trong đó có người mù và què quặt, những bà mẹ và những người mang thai... Ta sẽ dẫn chúng đến những khe suối nước, trên con đường bằng phẳng không làm vấp ngã một ai...". Vì những "người mù và què quặt" được Chúa "tụ họp lại" và "dẫn đến những khe suối nước" qua một "con đường bằng phẳng không làm vấp ngã một ai" như thế, nên họ làm sao mà không kêu lên như câu đáp ca: "Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan". Điển hình là "người ăn xin mù tên là Batimêô" trong bài Phúc Âm, khi hắn vừa nghe được Chúa gọi liền "quăng áo xống sang một bên, nhẩy lên mà đến cùng Chúa Giêsu", rồi sau khi được chữa cho khỏi bị mù thì, theo Phúc Âm thuật lại, "bắt đầu đi theo Người", Đấng mà bài đọc thứ hai đã nói đến "là tư tế muôn đời theo phẩm hàm Melkisêđê", tức là, cũng theo bài đọc thứ hai xác định, một vị "đại diện cho loài người trước mặt Thiên Chúa mà hiến dâng lễ vật và hiến tế đền tội".  

 

Sau hết, "cải thiện đời sống và tin vào Phúc Âm" là việc    hạ mình trước nhan Chúa, được chứng thực qua Phụng Vụ Lời Chúa năm C. Điều này đã sáng tỏ hết sức rõ ràng ngay trong bài Phúc Âm, qua lời Chúa Giêsu kết luận cho dụ ngôn mà Người muốn nói "với những ai tự đắc cho mình là kẻ công chính rồi khinh khi kẻ khác": "Người này (thu thuế) ra về thì được nên công chính, còn người kia (Pharisiêu) thì không". Lý do  "người thu thuế ra về thì được nên công chính, còn người Pharisiêu thì không", đã được chính Chúa Giêsu cắt nghĩa tiếp ngay sau đó, là "vì ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ bệ, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên". Theo trình thuật của bài Phúc Âm, người thu thuế hạ mình xuống nên khi "ra về thì được nên công chính" ở chỗ, tận đáy lòng nhận biết mình "là kẻ tội lỗi" trước nhan Chúa, nên bề ngoài đã tỏ ra "ở xa xa, không dám ngẩng mặt lên... chỉ biết đấm ngực..." ăn năn thống hối xin Chúa "thương lấy tôi". Còn người Pharisiêu nâng mình lên ở chỗ, bề trong, cho mình là "không như mọi người khác - trộm cắp, gian lận, ngoại tình - hay ngay cả như tên thu thuế kia", do đó, bề ngoài hắn đã tỏ ra vênh vang qua cử chỉ "ngẩng đầu lên cầu nguyện". Tại sao hạ mình xuống lại được nâng lên, nếu không phải tại Chúa, Đấng mà bài đọc thứ nhất xác định "là một vị Thiên Chúa chính trực, Đấng không biết đến thiên vị là gì", hơn thế nữa, như chính lời Ngài xác nhận trong bài đọc thứ nhất năm A, "vì Ta xót thương", mà, như bài đọc thứ nhất năm C hôm nay khẳng định: "Ai mà tự tình phụng sự Thiên Chúa thì được lắng nghe' lời nguyện cầu của họ thấu các tầng trời. Lời cầu của kẻ hèn mọn xuyên các tầng mây' nó không ngừng nghỉ cho tới khi đạt được mục tiêu của mình, nó cũng không rút lui cho tới khi Đấng Tối Cao đáp lại, xét xử công minh và xác nhận quyền lợi". Thế nên, câu đáp ca đã có lý để xưng tụng: "Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe". Điển hình là trường hợp của vị Tông Đồ Các Dân Ngoại, trường hợp mà chính ngài đã diễn tả và bầy tỏ cảm nhận của mình trong bài đọc thứ hai, đó là: "Vào buổi điều trần đầu tiên của cha ở pháp đường, không ai ở về phía của cha hết. Thật vậy, mọi người đều bỏ cha. Chớ chấp họ điều này! Thế nhưng Chúa đứng về phía của cha và ban cho cha sức mạnh, để qua cha mà việc rao giảng được hoàn tất và mọi dân nước nghe thấy phúc âm... Chúa sẽ tiếp tục giải cứu cha khỏi mọi mưu đồ hạm hại cha và đem cha an toàn đến vương quốc thiên đình của Ngài".

 

            Lạy Cha chúng con ở trên trời, trong "Chúa Kitô: Sự Sống Tái Sinh", và qua Bí Tích Rửa Tội, Cha đã qui tụ chúng con "từ khắp cùng trái đất" mà dẫn chúng con về nhà Cha. Xin Cha cho chúng con vì thế luôn luôn biết yêu mến Cha hết mình và yêu thương anh em như mình.