Thông Điệp:
Giầu Ḷng Thương Xót
(Dives in
Mesericordia)
của
ĐTC
Gioan-Phaolô II
ban hành
Chúa Nhật thứ
nhất Mùa Vọng,
(Đminh Maria Cao
Tấn
Tĩnh, BVL, dịch từ http://www.vatican.va/edocs/ENG0215/_INDEX.HTM
một số
đoạn tiêu biểu sau đây:)
8- Thiên Chúa:
T́nh Yêu Mạnh Hơn Sự
Chết và Tội Lỗi
Thập giá của Chúa Kitô trên đồi Canvê cũng là một
bằng chứng nói lên sức mạnh của sự dữ
tấn công chính Con Thiên Chúa, tấn công Đấng duy nhất
trong tất cả con cái loài người, tự bản
tính, tuyệt đối vô tội và không phạm tội, và
là Đấng đến trong thế gian không bị ô nhiễm
bởi việc bất tuân phục của Adong cũng
như bởi di sản của nguyên tội. Thế mà, ở
nơi đây, đúng hơn, ở nơi Người,
nơi Chúa Kitô, công lư được đền thay cho tội
lỗi bằng giá hy sinh của Người, bằng việc
Người "vâng lời cho đến chết"
(Phil. 2:8). Người là Đấng vô tội, "v́ chúng
ta mà Thiên Chúa làm cho Người trở thành tội lỗi"
(2Cor.
Thập giá là việc Thiên Chúa tự hạ sâu thẳm nhất
trước con người, và cũng là cái mà con người,
đặc biệt trong những lúc khó khăn và đau
đớn, cảm thấy như một số phận bất
hạnh. Thập giá như là một tiếp xúc giữa t́nh
yêu hằng hữu với những vết thương
đau nhất nơi cuộc hiện hữu trần gian của
con người' nó là việc hoàn tất trọn vẹn
chường tŕnh thiên sai, mà có một lần, Chúa Kitô đă
phác hoạ ra ở hội trường Nazarét (x.Lc. 4:18-21),
và rồi Người đă lập lại cho các sứ giả
được Gioan Tẩy Giả sai đến với
Người (x. Lc. 7:20-23). Theo những ngôn từ có lần
đă được viết trong lời tiên tri của
Isaia (x.35:5'61:1-3), th́ chường tŕnh này bao hàm trong việc
mạc khải t́nh yêu nhân hậu cho người nghèo khó,
người đau khổ và những tù nhân, cho kẻ
đui mù, kẻ bị áp bức và những tội nhân.
Trong mầu nhiệm vượt qua, những giới hạn
của sự dữ đa diện mà con người trở
thành một kẻ thừa hưởng trong cuộc hiện
hữu trần gian của ḿnh đều được
vượt qua: thập giá của Chúa Kitô thực sự làm
cho chúng ta hiểu được những cội rễ sâu
xa nhất của sự dữ được gắn liền
với tội lỗi và sự chết' như thế, thập
giá trở nên một dấu hiệu chung cuộc. Chỉ
vào lúc hoàn tất việc chung cuộc này, cũng như vào
lúc thế giới được thực sự canh tân,
t́nh yêu mới thắng cuộc, nơi tất cả mọi
kẻ được chọn, nơi tận những gốc
rễ sâu xa nhất của sự dữ, mang lại hoa trái
hoàn toàn chín mùi của ḿnh, là một vương quốc
sự sống, thánh thiện và trường sinh vinh hiển.
Nền tảng của việc hoàn tất chung cuộc này
đă đưộc chất chứa nơi thập giá của
Chúa Kitô cũng như trong cái chết của Người. Sự
việc Chúa Kitô "ngày thứ ba được phục
sinh" (1Cor. 15:4) tạo nên dấu hiệu cuối cùng của
sứ mệnh thiên sai, một dấu hiệu hoàn thành trọn
vẹn mạc khải của t́nh yêu nhân hậu trên thế
gian là nơi lụy thuộc sự dữ. Đồng
thời, nó cũng tạo nên một dấu hiệu báo
trước "một trời mới và một đất
mới" (KH 21:1), khi mà Thiên Chúa "sẽ lau khô hết
nước mắt, sẽ không c̣n chết chóc, hay than van,
kêu khóc, v́ những cái trước kia đă qua đi rồi"
(KH 21:4).
Nơi việc hoàn tất chung cuộc này, t́nh thương
sẽ được tỏ hiện như t́nh yêu, tuy nhiên,
c̣n trong giai đoạn tạm thời này, giai đoạn lịch
sử nhân loại, cũng là lịch sử của tội
lỗi và sự chết, th́ t́nh yêu, trước hết, phải
được tỏ hiện ra như là t́nh thương
và cũng phải được hiện thực như là
t́nh thương. Chương tŕnh thiên sai của Chúa Kitô,
chương tŕnh của t́nh thương, trở thành
chương tŕnh của dân Người, chương tŕnh của
Giáo Hội. Cây thập giá luôn luôn ở ngay tâm điểm của
nó, v́ nơi thập giá mà mạc khỉi của t́nh yêu nhân
hậu đạt được tột đỉnh của
ḿnh. Cho đến khi "những sự trước kia
qua đi" (KH 21:4), thập giá sẽ c̣n là điểm
liên hệ với những lời khác nữa của Khải
Huyền thánh Gioan: "Này đây, Ta đứng ở cửa
mà gơ' hễ ai nghe thấy tiếng Ta mà mở cửa ra, Ta
sẽ vào mà ăn uống với họ và họ ăn uống
với Ta" (KH 3:20). Bằng một cách thức đặc
biệt, Thiên Chúa cũng mạc khải t́nh thương của
Ngài ra khi Ngái kêu mời con người hăy 'thương lấy'
Con duy nhất của Ngái, Đấng bị đóng
đanh.
Chúa Kitô, đúng hơn, Đấng bị đóng đanh, là
Lời không qua đi (x.Mt. 24:35), và Người cũng là
Đấng đứng ở cửa mà gơ vào cơi ḷng của
mọi người (x.KH 3:20), song không ép uổng tự do của
họ, trái lại, t́m cách lôi kéo t́nh yêu từ chính cái tự
do này, một t́nh yêu không phải chỉ là một tác động
liên kết với Con Người đau khổ, mà c̣n là một
loại 't́nh thương' được tỏ ra bởi mỗi
một người trong chúng ta đối với Người
Con của Chúa Cha hằng hữu. Trong cả chương
tŕnh thiên sai này của Chúa Kitô, cả mạc khải của
t́nh thương bằng thập giá, phẩm giá của con
người c̣n có thể nào được tôn trọng và
cao trọng cao hơn nữa, v́, trong việc nhận lấy
t́nh thương, theo một nghiă nào đó, Người cũng
đồng thời là Đấng 'tỏ lộ t́nh
thương'?
Tóm lại, không phải hay sao, đó là vị thế của
Chúa Kitô liên quan đến con người, khi Người
nói: "Khi các ngươi làm điều ấy cho một
trong những anh em nhỏ mọn nhất này... là các
ngươi làm điều ấy cho chính Ta" (Mt.
25:40)? Cũng không phải hay sao, theo một nghĩa nào
đó, nơi những lời của Bài Giảng Trên Núi:
"Phúc cho kẻ có ḷng xót thương, v́ họ sẽ
được thương xót" (Mt. 5:7), mà một tổng
lược của toàn thể Tin Mừng, của toàn thể
cuộc 'trao đổi diệu kỳ' (admirabile commercium)
được chất chứa? Cuộc trao đổi này
là một lề luật của chính dự án cứu độ,
một lề luật đơn giản, mạnh mẽ,
đồng thời cũng 'dễ dàng' nữa. Không phải
hay sao, những lời của Bài Giảng Trên Núi này, ngay từ
đầu nói lên cái mà 'con tim nhân loại' có thể
("được xót thương"), cũng mạc khải
cho thấy, trong cùng một khung cảnh, mầu nhiệm
sâu thăm nơi Thiên Chúa: đó là mối hiệp nhất
khôn thấu của Cha, Con và Thánh Linh, trong đó, t́nh yêu, bao gồm
công lư, tác động t́nh thương, để rồi,
ngược lại, t́nh thương tỏ hiện sự
thiện toàn của công lư?
Mầu Nhiệm Vượt Qua đó là Chúa Kitô ở tột
đỉnh của mạc khải mầu nhiệm khôn thấu
nơi Thiên Chúa. Bởi thế, thật là chính xác cho những
lời được công bố tại Lầu Thất Tiệc
Ly sau đây được hoàn toàn thực hiện: "Ai
thấy Thày là thấy Cha" (Gn. 14:9). Thật thế, Chúa
Kitô, Đấng mà Cha đă v́ loài người "không dung
tha cho" (Rm. 8:32), và cũng là Đấng, bằng cuộc
khổ nạn của ḿnh và bằng cực h́nh thập giá,
không chiếm lấy ḷng thương của con người,
đă mạc khải trọn vẹn, trong cuộc phục
sinh của ḿnh, t́nh yêu mà Chúa Cha dành cho Người và, trong
Người, cho tất cả mọi người.
"Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết,
mà là của kẻ sống" ( (Mc. 12:27). Trong cuộc phục
sinh của ḿnh, Chúa Kitô đă mạc khải cho thấy một
vị Thiên Chúa của t́nh yêu nhân hậu, chính bởi v́
Người đă chấp nhận thập giá như
đường lối để phục sinh. Và chính v́ lư
do này mà, khi chúng ta tưởng nhớ đến thạp
giá của Chúa Kitô, đến cuộc khổ nạn và tử
nạn của Người, đức tin và đức cậy
của chúng ta đặt trọng tâm vào Đấng Phục
Sinh: tức là vào Chúa Kitô là Đấng "vào buổi tối
hôm đó là ngày thứ nhất trong tuần,... đứng
giữa họ" ở Lầu Thất Tiệc Ly,
"nơi các môn đệ ở,... thở hơi trên họ
mà nói với họ: 'Hăy nhận lấy Thánh Linh. Nếu các
con tha tội cho ai th́ họ được tha' nếu các
con cầm tội ai th́ họ bị cầm tội'"
(Gn. 20:19-23).
Đây Người Con Thiên Chúa, Đấng nghiệm thấy
một cách sâu xa, trong cuộc phục sinh của ḿnh, t́nh
thương được tỏ ra cho chinh Người, tức
là t́nh yêu của Chúa Cha mạnh hơn cả sự chết.
Và cũng Chúa Kitô đó, là Con Thiên Chúa, Đấng vào cuối
sứ vụ thiên sai của ḿnh, cũng như, theo một
nghĩa nào đó, ngay cả sau đó nữa, mạc khải
chính ḿnh ra như một mạch nguồn t́nh thương vô
tận của cùng một t́nh yêu mà, trong một bối cảnh
sau đó của lịch sử cứu độ trong Giáo Hội,
được vĩnh viễn xác nhận mạnh mẽ
hơn cả tội lỗi. (Phụ chú của người
trích dịch: Ở đây, phải chăng Đức Thánh
Cha có ư nối đến cả những mạc khải
tư của Chúa Giêsu, như Những Lời Thỏ Thẻ
trong bộ "Tội Tràn Lan... Phúc Ngập Lụt!"
này, nhất là những lời mạc khải tư của
Chúa Giêsu về t́nh thương của Người cho nữ
tu Ba-Lan Maria Faustina mà ngài, khi c̣n là hồng y tổng giám mục
ở Cracow, đă chính thức thực hiện tiến tŕnh
phong chân phước cho chị ngày 20-9-1967 và khi làm giáo hoàng
đă phong á thánh cho chị ngày 18-4-1993). Chúa Kitô vượt
qua quả thực là một nhập thể của t́nh
thương' là dấu chứng sống động của
t́nh thương: trong lịch sử cứu chuộc cũng
như trong lúc chung cuộc. Trong tinh thần đó, phụng
vụ của tin mừng Phục Sinh đặt vào môi miệng
chúng ta những lời Thánh Vịnh 89 (88):2 là "Muôn đời
tôi sẽ ca ngợi t́nh thương Chúa" (Misericordias
Domini in aeternum cantabo).
11- Thế Giới:
Lo Ngại trong Căng Thẳng
và Đe Doạ
Cảm giác bị đe dọa đang gia tăng trong thế
giới của chúng ta. Sự gia tăng về cái sợ của
sự hiện hữu này có đặc biệt gắn liền
với tâm tưởng tương khắc liên quan đến
những chồng chất của vũ khí nguyên tử ngày
nay có thể đưa đến việc tự hủy một
phần nhân loại. Thế nhưng, sự đe dọa
không chỉ liên quan đến cái mà nhân loại có thể
gây cho nhau bằng những phương tiện do kỹ thuật
quân sự cung cấp' nó c̣n liên quan đến nhiều nguy
hại khác gây ra bởi một xă hội duy vật chủ
trương vật trọng hơn người. Bởi thế,
người đương thời sợ rằng việc
sử dụng những phương tiện do thứ xă hội
này sáng chế, cá nhân cũng như môi sinh, cộng đoàn,
xă hội và dân tộc có thể sẽ trở thành nạn
nhân cho sự lạm dụng quyền lực của nhau. Lịch
sử của thế kỷ chúng ta đă có những điển
h́nh về điều này. Bất chấp tất cả mọi
tuyên ngôn về những quyền lợi của con người
theo chiều kích toàn diện của họ, tức là theo chiều
kích con người hiện hữu về thể lư cũng
như tâm linh, chúng ta không thể nói rằng những điển
h́nh này chỉ thuộc về quá khứ mà thôi.
Con người có lư khi sợ trở thành nạn nhân cho sự
đàn áp làm mất đi tự do nội tại của họ,
mất đi cơ hội diễn đạt chân lư mà họ
xác tín, mất đi đức tin mà họ tuyên xưng, mất
đi khả năng theo tiếng lương tâm chỉ dẫn
đường ngay nẻo chính. Những phương tiện
kỹ thuật trong tầm tay của xă hội tân tiến
chất chứa trong chúng, chẳng những t́nh trạng tự
diệt bằng những đụng chạm về quân sự,
mà c̣n cả t́nh trạng chế ngự 'lặng lẽ' của
những cá nhân, của những môi sinh, của toàn thể
những tổ chức cũng như những quốc gia,
để rồi, v́ lư do này hay lư do nọ, có thể chứng
tỏ cho thấy mối bất lợi đối với
những kẻ chiếm hữu được những
phương tiện cần thiết và không lo ngại ǵ cả
trong việc sẵn sàng sử dụng chúng. Chẳng hạn
như việc tra tấn vẫn c̣n tiếp tục hiện
hữu, được chính quyền sử dụng một
cách có phương pháp, như phương tiện thống
trị và áp bức chính trị, được thi hành bởi
những thuộc cấp mà không có lỗi ǵ cả. Do
đó, cùng với nhận thức về sự đe dọa
thể chất, c̣n có một nhận thức về một
mối đe dọa khác, c̣n hủy hoại hơn nữa
cái con người thực sự là, cái ràng buộc thâm sâu với
nhân phẩm con người cũng như với quyền lợi
của họ về chân lư và tự do.
Tất cả những điều này đang xẩy ra trong
một bối cảnh đáng thương tiếc kinh khủng
gây ra bởi sự kiện là, trong khi có những thành phần
và xă hội no đầy giầu có sát cánh bên nhau sống
trong dư thừa theo hưởng thụ và hoan lạc, th́
cũng trong cùng một gia đ́nh nhân loại lại có những
cá nhân hay hội nhóm đang chịu đựng đói khổ.
Có những thơ nhi chết đói dưới con mắt của
mẹ ḿnh. Nơi một số phần đất khác nhau
trên thế giới, nơi một số cô cấu kinh tế
xă hội khác nhau, có những vùng nghèo đói toàn diện, thiếu
thốn và chậm tiến. Sự kiện này ai cũng
đă biết. T́nh trạng bất đồng giữa các
cá nhân và giữa các dân tộc không những c̣n tồn tại,
mà c̣n đang tăng lên nữa. Nó vẫn c̣n xẩy ra, song
song với nhau những người giấu có, sống
trong dư dật, có những người sống trong thiếu
thốn, chịu cảnh khốn cùng và thường bị
chết đói thật sư' mà con số của họ
lên đến cả mười, hay ngay cả hằng
trăm triệu. Đó là lư do tại sao những lo ngại
về luân lư lại càng trở nên dữ dội hơn. Rơ
ràng là sự bại hoại căn gốc hay đúng hơn
là một loạt bại hoại, thực sự là một
guồng máy bại hoại đang nằm ở gốc rễ
của nền kinh tế đương thời cũng như
nền văn hóa duy vật không để cho gia đ́nh nhân
loại thoát khỏi những t́nh trạng bất công sâu xa ấy.
H́nh ảnh về thế giới ngày nay này chất chứa
quá nhiều sự dữ về cả thể lư lẫn luân
lư, đến nỗi, làm cho nó trở thành một thế giới
bị giằng co bởi những tương khắc và
căng thẳng, đầy đe dọa cho tự do của
con người, cho lương tri và tôn giáo - h́nh ảnh này
nói lên nỗi lo ngại mà con người hiện nay cảm
nghiệm. Nỗi lo ngại này được cảm nghiệm,
chẳng những bởi những người bị bất
lợi hay bị áp bức, mà c̣n bởi cả những kẻ
gặp may mắn giầu sang, tiến phát và quyền lực.
Để rồi, mặc dầu không thiếu ǵ người
cố gắng t́m hiểu những nguyên do gây ra những mối
lo ngại này, hay cố gằng t́m cách chống lại nó,
th́, tận đáy tâm linh con người, nỗi lo ngại
này vẫn c̣n mạnh hơn tất cả những
phương tiện hiện tại nữa. Nỗi lo ngại
này liên hệ đến - đúng như Công Đồng
Chung Vaticanô II nhận định - những khó khăn sâu xa
về tất cả sự hiện hữu của con
người. Nó dính liền với chính cảm quan hiện
hữu của con người trong thế giới, và là một
mối lo ngại cho tương lai của con người
cùng toàn thể nhân loại' nó đ̣i phải có những giải
quyết dứt khoát dường như hiện nay đối
với nhân loại không thể chần chờ được
nữa.
13-15. Giáo Hội:
Tuyên Xưng và Loan Truyền
T́nh Thương
13. Giáo Hội sống một sự
sống đích thực khi Giáo Hội tuyên xưng và công bố
t́nh thương, một phẩm tính diệu huyền nhất
của Đấng Tạo Hoá và của Đấng Cứu
Chuộc, và khi Giáo Hội mang người ta đến gần
với những nguồn mạch t́nh thương của
Đấng Cứu Thế, nguồn mạch mà Giáo Hội
là người được kư thác và là chỗ chất chứa.
Về phương diện này, quan trọng nhất là việc
liên tục suy niệm Lời Thiên Chúa, và trên tất cả,
là việc tham dự một cách ư thức và sâu xa vào Thánh Thể
cũng như vào bí tích Thống Hối hay Hoà Giải. Thánh
Thể mang chúng ta đến gần hơn bao giờ hết
t́nh yêu mạnh hơn sự chết: "V́ hễ mỗi lần
chúng ta ăn bánh này và uống chén này", chúng ta tuyên
xưng chẳng những sự chết của Đấng
Cứu Chuộc mà c̣n cả việc Người Sống Lại
nữa, "cho tới khi Người đến" trong
vinh quang (x. 1Cor. 11:26). Được cử hành để
nhớ đến Người là Đấng, theo sứ vụ
thiên sai của Người, đă tỏ Chúa Cha cho chúng ta, bằng
những lời của Người và bằng thập giá của
Người, nghi thức Thánh Thể đó cũng biểu
chứng một t́nh yêu vô tận, t́nh yêu làm cho Người
v́ thế mới luôn luôn ước mong nên một với
chúng ta và hiện diện giữa chúng ta, khi đến gặp
gỡ mỗi một cơi ḷng con người. Chính bí tích Thống
Hối hay Hoà Giải sửa soạn đường nẻo
cho mỗi một người, kể cả những ai tŕ
trệ với những lầm lỗi nặng nề.
Nơi bí tích này, mỗi người có thể cảm nghiệm
thấy t́nh thương một cách chuyên biệt, tức
là, một t́nh yêu c̣n mạnh hơn tội lỗi. Điều
này đă được đề cập đến ở
thông điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người
(Redemptor Hominis)' tuy nhiên, ở đây cũng thích hợp
để trở lại đề tài trọng yếu này một
lần nữa.
Thật vậy, v́ tội lỗi hiện diện trong thế
gian mà "Thiên Chúa đă yêu thương... đến ban Con
Một của Ngài" (Gn. 3:16), để Thiên Chúa, Đấng
"là t́nh yêu" (1Gn. 4:8), không c̣n cách nào mạc khải
chính ḿnh ra hơn là bằng t́nh thương. Điều này
tương hợp chẳng những với sự thật
sâu thẳm nhất về t́nh yêu mà Thiên Chúa là, mà c̣n với
cả sự thật nội tại về con người
cũng như về thế giới là đất tạm
dung của con người.
Như một sự trọn lành của Thiên Chúa vô cùng, t́nh
thương cũng vô cùng nơi chính ḿnh. Bởi thế, việc
Người Cha sẵn ḷng tiếp nhận những đứa
con hoang đàng của ḿnh trở về nhà với Ngài cũng
vô cùng và vô tận. Việc sẵn ḷng tha thứ và quyền
năng tha thứ, liên tục chảy ra từ giá trị diệu
vợi nơi hy tế của Người Con th́ vô
cùng. Không có một tội lỗi nào của con người
có thể vượt quá quyền năng này, kể cả
việc có thể giới hạn nó lại cả. Về phần
của con người, quyền năng này chỉ có thẻ
bị giới hạn khi họ thiếu thiện chí, thiếu
sẵn ḷng ăn năn hối cải, tức là nhất
định cứng ḷng, chống lại ân sủng và chân
lư, nhất là khi đối diện với chứng từ
thập giá và phục sinh của Chúa Kitô.
Bởi thế, Giáo Hội tuyên xưng và công bố việc
hối cải. Việc hối cải trở về với
Thiên Chúa luôn luôn bao gồm việc nhận thức
được t́nh thương của Ngài, đó là, khám phá
ra rằng t́nh yêu th́ nhẫn nại và nhân hậu (x.1Cor.
13:4) mà chỉ có Đấng là Hoá Công cũng là Thân Phụ mới
có' t́nh yêu mà Đấng là "Thiên Chúa và Thân Phụ của
Đức Giêsu Kitô" (2Cor. 1:3) trung thành cho đến những
thành quả tối hậu nơi lịch sử giao ước
của Ngài với loài người: kể cả thập
giá, tử nạn và phục sinh của Người Con. Hối
cải trở về với Thiên Chúa luôn luôn là hoa trái của
việc tái nhận thức lại Người Cha này, Đấng
giầu t́nh thương.
Kiến thức đích thực về một vị Thiên
Chúa của t́nh thương, một vị Thiên Chúa của
t́nh yêu êm ái dịu dàng, là một mạch nguồn liên lỉ
vô tận cho việc hối cải, một việc hối
cải chẳng những là tác động nội tâm nhất
thời mà c̣n là một thái độ thường xuyên, một
trạng thái của tâm trí nữa. Những ai nhận biết
Thiên Chúa như vậy, những ai 'thấy' Ngài như thế,
chỉ có thể sống trong một trạng thái liên tục
hối cải trở về với Ngài. Bởi vậy, họ
sống trong trạng thái hối cải (in status conversionis)'
và chính trạng thái hối cải này nói lên yếu tố
sâu xa nhất về cuộc lữ hành của mọi
người nam nữ sống trên trên trần gian (in statu
viatoris). Hiển nhiên là Giáo Hội tuyên xưng t́nh
thương của Thiên Chúa được mạc khải
nơi Chúa Kitô tử giá và phục sinh, chẳng những bằng
lời nói qua việc rao giảng của Giáo Hội, mà c̣n,
trên hết, bởi nhịp sống sâu xa nhất của
toàn thể Dân Thiên Chúa. Nhờ chừng từ của cuộc
sống này, Giáo Hội hoàn tất sứ vụ xứng hợp
với Dân Thiên Chúa, một sứ vụ tham dự vào theo ư
nghiă là tiếp nối sứ vụ thiên sai của chính Chúa
Kitô.
Giáo Hội hiện đại ư thức tường tận
rằng, chỉ lấy t́nh thương của Thiên Chúa làm
nền tảng Giáo Hội mới có thể thực hiện
những công việc được khởi xướng từ
Công Đồng Chung Vaticanô II, nhất là công việc đại
kết nhằm hiệp nhất tất cả mọi
người cùng tuyên nhận một Chúa Kitô. Khi thực hiện
nhiều cố gắng theo chiều hướng này, Giáo Hội
khiêm tốn tuyên xưng là, chỉ có t́nh yêu mạnh hơn yếu
đuối của những chia rẽ loài người mới
có thể dứt khoát mang lại sự hiệp nhất mà
Chúa Kitô đă xin với Chúa Cha, cũng là sự hiệp nhất
mà Thần Linh không ngừng van xin cho chúng ta "bằng những
lời than khôn tả" (Rm. 8:26).
14. Chúa Giêsu Kitô dạy rằng,
con người không những nhận lănh và cảm nghiệm
t́nh thương của Thiên Chúa, mà c̣n được kêu gọi
để "thực thi t́nh thương" cho nhau nữa:
"Phúc cho ai thương xót, v́ họ sẽ được
xót thương" (Mt. 5:7). Giáo Hội thấy nơi những
lời này một tiếng gọi tác hành, và Giáo Hội cố
gắng thực thi t́nh thương. Tất cả những
Phúc Đức của Bài Giảng Trên Núi đều nói lên
đường lối hối cải và canh tân đời
sống, tuy nhiên, theo chiều hướng này, nổi bật
nhất là điều chỉ về những ai có ḷng
thương xót. Con người đạt được
t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa là t́nh thương của
Ngài, cho đến độ chính họ được biến
đổi sâu xa trong tinh thần của t́nh yêu đó đối
với tha nhân.
Tiến tŕnh phúc âm chân chính này không phải chỉ là một
biến đổi của tinh thần được nhận
thức một lần là xong: nó là cả một lối sống,
một tính chất chính yếu liên tục của ơn gọi
Kitô hữu. Nó bao gồm việc nhận thức liên lỉ
và thực hành kiên tŕ một t́nh yêu như là một quyền
năng vừa hiệp nhất vừa thăng tiến, bất
chấp mọi khó khăn tự nhiên về tâm lư hay về
xă hội: đó là vấn đề thực sự của
t́nh yêu nhân hậu mà, theo yếu tính của nó, lại là một
t́nh yêu sáng tạo. Trong những liên hệ hỗ
tương giữa những con người với nhau th́
t́nh yêu nhân hậu không bao giờ là một tác động
hay tiến t́nh một chiều cả. Ngay cả trong những
trường hợp mà mọi sự có vẻ như là chỉ
có một bên ban phát và hiến tặng, c̣n bên kia chỉ lănh
nhận và thụ hưởng, (như trường hợp
của một thầy thuốc trị bệnh, một thày
giáo dạy học, các cha mẹ nâng đỡ và dưỡng
nuôi con cái của ḿnh, một người làm ơn cho kẻ
thiếu thốn), th́ thực ra, kẻ cho đi bao giờ
cũng là người có lợi. Trong trường hợp
nào đi nữa, họ cũng có thể dễ dàng thấy
ḿnh ở trong vị thế của một người lănh
nhận, một người được lợi, một
người cảm nghiệm thấy t́nh yêu nhân hậu' họ
cũng có thể thấy ḿnh là đối tượng của
t́nh thương.
Theo ư nghĩa này, đối với chúng ta, Chúa Kitô tử
giá là một mẫu gương, một gợi hứng và một
phấn khích tuyệt vời nhất. Khi chúng ta đặt
ḿnh trên mẫu gương không phải là dễ dàng này, với
tất cả bản tính của con người, chúng ta có
thể tỏ t́nh thương ra cho kẻ khác, khi biết rằng
Chúa Kitô chấp nhận t́nh thương của chúng ta
như thể nó tỏ ra cho chính Người (x.Mt. 25:34-40).
Căn cứ vào mẫu gương này, chúng ta cũng phải
tiếp tục thanh tẩy tất cả mọi hành động
của chúng ta cũng như mọi ư hướng của
chúng ta, là những ǵ làm cho t́nh thương, khi làm lành cho những
người khác, bị coi như và được thực
thi có một chiều. Một tác động t́nh yêu nhân hậu
chỉ thực sự là như thế, khi chúng ta sâu xa xác
tín rằng, vào lúc mà chúng ta thực hiện tác động
này th́ đồng thời chúng ta cũng được nhận
lănh t́nh thương từ con người đang chấp
nhận tác động đó của chúng ta. Nếu tính chất
lưỡng diện và hỗ tương này mà bị thiếu
vắng th́ những hành động của chúng ta chưa thật
sự là những hành động xót thương, hay trong
chúng ta cũng chưa hoàn toàn có một ḷng hối cải
tron vẹn, theo như Chúa Kitô, bằng lời nói cũng
như gương lành của Người, kể cả thập
giá, đă tỏ ra cho chúng ta, hoặc là chúng ta chưa
được hoàn toàn thông dự với mạch nguồn
vĩ đại của t́nh yêu nhân hậu mà Người
đă mạc khải cho chúng ta.
Bởi thế, đường lối mà Chúa Kitô tỏ ra
cho chúng ta trong Bài Giảng Trên Núi với phúc đức liên
quan đến những ai có ḷng xót thương th́ phong phú
hơn đường lối mà đôi khi chúng ta thấy ở
nơi những chủ trương của phàm nhân về
t́nh thương. Những chủ trương này coi t́nh
thương như là một hành động hay tiến
tŕnh một chiều, khi quan niệm và giữ một khoảng
cách giữa người thực thi t́nh thương và
người hưởng lợi t́nh thương. Đó là nỗ
lực để giải toả những liên hệ nhân
đới và xă hội khỏi t́nh thương mà đặt
chúng lên trên căn bản duy công lư mà thôi. Tuy nhiên, những
chủ trương như thế về t́nh thương
không thấy được mối liên kết sâu xa giữa
t́nh thương và công lư, được cả truyền thống
thánh kinh nói đến, nhất là qua sứ vụ thiên sai của
Chúa Giêsu Kitô. Nói vậy có nghĩa là, t́nh thương chân
chính là nguồn mạch sâu thẳm nhất của công lư. Nếu
tự ḿnh, công lư xứng hợp với 'việc điều
đ́nh' cho người ta, liên quan đến vấn đề
phân phối hỗ tương những phúc lợi khách quan
theo một phương thức công b́nh, th́ t́nh yêu, và chỉ
có t́nh yêu, (gồm cả thứ t́nh yêu nhân ái mà chúng ta gọi
là 't́nh thương'), mới xứng hợp để lôi
kéo con người về với chính Người.
T́nh thương đích thực Kitô giáo, theo một nghiă nào
đó, cũng là một cuộc nhập thể trọn hảo
nhất của 'sự b́nh đẳng' giữa con người
ta, và v́ thế, c̣n là một cuộc nhập thể của
công lư nữa, bởi v́, công lư trong lănh vực của ḿnh cũng
nhắm đến cùng một kết quả. Tuy nhiên, sự
b́nh đẳng do công lư mang lại bị giới hạn
vào lănh vực những phúc lợi khách quan và bề ngoài mà
thôi, trong khi t́nh yêu và ḷng thương xót mang lại một
sự b́nh đẳng làm cho người ta gặp nhau trong
giá trị là chính con người, với một phẩm giá
xứng hợp với con người. Ngoài ra, 'sự b́nh
đẳng' giữa người ta với nhau trong t́nh yêu
"nhẫn nại và từ ái" (1Cor. 13:4) không làm mất
đi những khác biệt: người ban phát trở nên
càng quảng đại hơn, khi họ cảm thấy
cùng một lúc được lợi lộc bởi người
chấp nhận tặng ân của họ' ngược lại,
người chấp nhận tặng ân biết rằng, khi
chấp nhận tặng ân, họ cũng theo cung cách riêng của
ḿnh đang làm lành trong việc phục vụ cho mục
đích cao cả của phẩm giá con người' thế
là sự b́nh đẳng này đóng góp vào việc hiệp nhất
người ta lại với nhau bằng một
phương thức vững chắc hơn.
Như thế, t́nh thương trở nên một yếu tố
không thể châm chước cho việc làm sắc bén hơn
những mối liên hệ hỗ tương giữa
người ta vớí nhau, trong một tinh thần hết sức
tôn trọng đối với cái ǵ là nhân bản, cũng
như trong một tinh thần huynh đệ tương
giao. Không thể nào thiết lập mối giây liên kết
người ta lại với nhau này, nếu họ muốn
qui định những liên hệ hỗ tương giữa
họ chỉ theo tầm mức của công lư mà thôi. Như
thế có nghĩa là, trong mọi lănh vực của những
liên hệ nhân đới, công lư phải được
'hoàn chỉnh' đến một mức độ đáng kể
bởi một thứ t́nh yêu mà thánh Phaolô công bố "là
nhẫn nại và từ ái", hay nói cách khác, phải chiếm
được những đặc tính của một t́nh
yêu nhân hậu mang y hệt yếu tính của Phúc Âm và Kitô
Giáo. Hơn nữa, chúng ta hăy nhớ rằng, t́nh yêu nhân hậu
cũng có nghĩa là nỗi dịu dàng và cảm thông
thân ái đă được đề cập đến một
cách hết sức sống động trong dụ ngôn
người con hoang đàng (x.Lc. 15:11-32), cũng như trong
dụ ngôn con chiên lạc và đồng bạc cắc bị
mất (x.Lc. 15:1-10)...
Xă hội có thể trở nên 'càng nhân bản hơn bao giờ
hết', chỉ khi nào chúng ta đem đến cho tất cả
mọi liên hệ hỗ tương tạo nên lănh vực
luân lư của nó, một thời khắc của sự thứ
tha, đúng như là yếu tính của Phúc Âm. Thứ tha thể
hiện trên thế gian này sự hiện diện của một
t́nh yêu mạnh hơn tội lỗi. Thứ tha cũng là
điều kiện căn bản cho việc hoà giải, chẳng
những trong mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con
người, mà c̣n trong những mối liên hệ giữa
con người với nhau. Một thế giới mà sự
thứ tha bị loại bỏ sẽ chẳng c̣n là ǵ khác
hơn là một thế giới của công lư lạnh lùng vô
cảm, mà nhân danh nó, mỗi người sẽ bất chấp
nhau để đ̣i hỏi lấy quyền lợi riêng
tư của ḿnh' hôn là một số những loại vị
kỷ khác nhau vốn ẩn náu nơi con người sẽ
biến cuộc sống và xă hội loài người thành một
tổ chức của kẻ mạnh đàn áp kẻ yếu,
hay thành một thao trường cho những phe nhóm măi măi
đối chọi nhau...
15. Giáo Hội công bố sự
thật về t́nh thương của Thiên Chúa được
mạc khải nơi Chúa Kitô tử giá và phục sinh, và
Giáo Hội tuyên xưng sự thật này bằng những
đường lối khác nhau. Hơn thế nữa, Giáo Hội
t́m cách thực thi t́nh thương đối với con
người qua con người, và Giáo Hội thấy rằng
trong việc thực thi t́nh thương này một điều
kiện không thể châm chước trong việc lo cho một
thế giới được tốt đẹp hơn và
'nhân bản hơn', hôm nay cũng như mai ngày. Tuy nhiên,
không có thời nào và không có một giai đoạn lịch sử
nào, đặc biệt vào lúc khẩn trương như thời
của chúng ta đây, Giáo Hội lại có thể quên đi
cầu nguyện đó là một tiếng kêu cứu đến
t́nh thương của Thiên Chúa giữa nhiều h́nh thức
sự dữ đang đè nặng trên nhân loại và
đang đe dọa nhân loại. Đúng vậy, đây là
quyền lợi và nhiệm vụ của Giáo Hội trong
Chúa Giêsu Kitô, quyền lợi và nhiệm vụ của Giáo Hội
đối với Thiên Chúa cũng như đối với
nhân loại. Lương tâm nhân loại càng nhường
bước cho việc tục hoá, mất đi cảm quan
của ḿnh về ư nghiă thật sự của từ ngữ
't́nh thương', xa lià Thiên Chúa và tách khỏi mầu nhiệm
của t́nh thương, th́ Giáo Hội càng có quyền lợi
và nhiệm vụ "lớn tiếng" (DT 5:7) kêu xin
Thiên Chúa t́nh thương. Những "tiếng kêu lớn"
này phải là đánh dấu của Giáo Hội trong thời
đại chúng ta, những tiếng kêu thốt lên với
Thiên Chúa để van xin t́nh thương của Ngài, một
biểu dương thực sự mà Giáo Hội tuyên
xưng và công bố như đă thể hiện nơi Chúa
Giêsu tử giá và phục sinh, tức nơi Mầu Nhiệm
Vượt Qua. Chính mầu nhiệm này mang trong ḿnh mạc
khải hoàn toàn nhất của t́nh thương, đó là, của
t́nh yêu mạnh hơn sự chết, mạnh hơn tội
lỗi và mọi sự dữ, t́nh yêu nâng con người
lên khi họ rơi vào vực thẳm và giải thoát họ
khỏi những đe dọa trầm trọng nhất.
Con người hiện đại cảm thấy những
đe dọa này. Điều đă đề cập đến
trước đây về sự kiện này chỉ là một
tóm lược đại khái vậy thôi. Con người hiện
đại thường hay lo âu tự hỏi về giải
pháp đối với những căng thẳng khủng khiếp
đă được dựng lên trên thế giới và
đang làm cho loài người rối lên. Và, nếu có những
lúc con người thiếu can đảm để kêu lên lời
'xót thương', hay nếu họ cũng chẳng t́m thấy
điều ǵ tương đương trong lương
tâm rỗng không tôn giáo của họ, th́ Giáo Hội lại
càng cần phải thốt lên tiếng kêu này, chẩng những
nhân danh riêng ḿnh, mà c̣n nhân danh của tất cả mọi
người nam nữ trong thời đại chúng ta...
Nhân danh Chúa Giêsu Kitô tử giá và phục sinh, trong tinh thần
sứ vụ thiên sai của Người, trải qua lịch
sử nhân loại, chúng ta cất tiếng của ḿnh mà nguyện
cầu, xin T́nh Yêu nơi Chúa Cha, một lần nữa, thể
hiện ở giai đoạn lịch sử này, và qua công việc
của Chúa Con và Thánh Linh, xin T́nh Yêu tỏ ra có mặt ở
thế giới hiện đại của chúng ta và tỏ
ra c̣n mạnh hơn sự dữ: hơn tội lỗi và sự
chết. Chúng ta cầu xin điều này nhờ lời cầu
bầu của Đấng không ngừng công bố "t́nh
thương... từ đời nọ đến đời
kia" (Lc. 1:50), và cũng nhờ lời can thiệp của
những ai hoàn tất trọn vẹn những lời của
Bài Giảng Trên Núi: "Phúc cho ai có ḷng xót thương, v́ họ
sẽ được thương xót" (Mt 5:7)