<7>
Nương Thân Ẩn Nau NHƯ TRẺ NHỎ
Trong dụ ngôn "hai người lên đền thờ
cầu nguyện" (Luca 18:9-14), thành phần người
lớn và "như trẻ nhỏ" ở đây không hiện
thực như ở ba trường hợp đă
được bàn tới trong ba chương trước.
Tuy nhiên, chính v́ là dụ ngôn, mà ư nghĩa của nó có một
mục đích rơ ràng. Vậy nội dung của dụ ngôn
này nói ǵ và ngụ ư dạy điều ǵ?
Nội dung của dụ ngôn này đă được xác
định rơ ràng trong câu mở đầu:
"Người
(Chúa Giêsu) nói dụ ngôn này
với
những người nghĩ là ḿnh công chính
và coi
kẻ khác không ra ǵ."
(Luca 18:9)
Mục đích của dụ ngôn này là chính câu Chúa Giêsu
kết luận dụ ngôn để tỏ rơ chủ ư
của Người:
"Ai nâng
ḿnh lên sẽ bị hạ bệ,
c̣n ai
hạ ḿnh xuống sẽ được nâng lên"
(Luca 18:14).
Đọc dụ ngôn này, người ta thấy ngay hai h́nh
ảnh tiêu biểu cho hai thành phần người lớn
và "như trẻ nhỏ". H́nh ảnh tiêu
biểu cho thành phần người lớn chính là
người Pharisiêu, và h́nh ảnh tiêu biểu cho thành
phần "như trẻ nhỏ" chính là người
thu thuế.
Thai độ người lớn qua h́nh ảnh của
người Pharisiêu, cũng như ngược lại, thái
độ "như trẻ nhỏ" qua h́nh ảnh
của người thu thuế, đều được
bộc lộ qua cử chỉ cũng như lời nói
của họ.
Thái độ người lớn qua h́nh ảnh của
người Pharisiêu cũng như thái độ "như
trẻ nhỏ" qua h́nh ảnh người thu thuế,
được tỏ lộ qua hai cử chỉ
ngược nhau sau đây:
"Người Pharisiêu ngẩng đầu lên cầu
nguyện như thế này..." (Luca 18:11)'
"C̣n
người kia ở xa xa, không dám ngước mắt lên
trời, chỉ biết đấm ngực mà
rằng..." (Luca 18:13)
Thái độ người lớn qua h́nh ảnh của
người Pharisiêu và thái độ "như con
trẻ" qua h́nh ảnh người thu thuế, c̣n
được tỏ hiện qua lời nói của hai
người dâng lên Chúa như sau:
"Người Pharisiêu ...
cầu nguyện như thế này:
'Tôi tạ ơn Ngài, ôi Thiên Chúa,
v́ tôi không phải như những người khác:
gian tham, bất lương, ngoại t́nh,
hay ngay cả như người thu thuế kia.
Tôi chay tịnh mỗi tuần hai lần.
Tôi nộp thuế thập phân
cho tất cả những ǵ tôi sở hữu'"
(Luca 18:11-12).
"C̣n
người thu thuế cứ đấm ngực mà
rằng: ' Ôi Thiên Chúa, xin thương xót đến tôi là
kẻ tội lỗi!'" (Luca 18:13)
Việc cầu nguyện đối ngược nhau
giữa hai h́nh ảnh tiêu biểu của dụ ngôn này
đă được Chúa Giêsu cho biết kết quả là:
"Người
này (thu thuế) rời đền thờ trở về nhà
được nên công chính, c̣n người kia (Pharisiêu) th́
không" (Luca 18:14).
Phải, chính sự kiện "được nên công
chính" hay không ở dụ ngôn "hai người lên
đền thờ cầu nguyện" này là kết
quả nói lên tinh thần sống đạo của mỗi
h́nh ảnh tiêu biểu cho cả thành phần người
lớn cũng như thành phần "như trẻ
nhỏ".
Tại sao người Pharisiêu là h́nh ảnh tiêu biểu cho
thành phần người lớn không "được
nên công chính" sau khi cầu nguyện, c̣n người thu
thuế th́ lại được?
Sở dĩ người Pharisiêu là h́nh ảnh tiêu biểu
cho thành phần người lớn ở đây không
"được nên công chính" là v́ "nâng ḿnh
lên".
Thế nhưng, người Pharisiêu này, qua cử chỉ
cũng như lời nói, đă nâng ḿnh lên ở chỗ nao?
Nếu không phải ở chỗ "tự cho ḿnh là
người công chính".
Vậy, người Pharisiêu này đă cho ḿnh là người
công chính ở chỗ nào? Nếu không phải ở chủ
trương sai lầm, cho rằng tầm mức và
thực tại nên công chính là do ở việc con
người tuân giữ lề luật, chứ không phải
ở tại chính lề luật là dấu chứng của
Thánh Ư toàn chân-thiện-mỹ của Thiên Chúa, Đấng
đă phán:
"Cac
ngươi phải nên thánh, v́ Ta là Chúa, Thiên Chúa của các
ngươi là thánh" (Lêvi 20:26). "Ta là Chúa, Đấng
thánh hóa các ngươi, là thánh" (Lêvi 21:8)
Thánh tông đồ dân ngoại, một người Pharisiêu
nhiệt thành (xem Tông Đồ Công Vụ 23:6), đă không
ngần ngại sửa sai chủ trương này, khi
viết:
"Không ai
sẽ được nên công chính trước Thiên Nhan
nhờ việc tuân giữ lề luật" (Rôma 3:20)
Với chủ trương nên công chính có tính cách nhân bản
theo cá nhân chủ nghĩa, căn cứ vào việc con
người giữ lề luật như thế, mà, thay v́
"yêu thương làm hoàn tất lề luật" (Rôma
13:10), th́, ngược lại, người pharisiêu đă
"nâng ḿnh lên", "coi thường người
khac", thậm chí ngay cả trước mặt Thiên Chúa,
khi người đó dâng lời nguyện lên Ngài,
kể công ḿnh đă giữ đúng lề luật, "không
giống như tên thu thuế kia".
Vẫn biết "được nên công chính" không
phải hệ tại nguyên việc con người giữ
lề luật, thế nhưng, nếu không giữ lề
luật, th́ kể như đă phạm tội, v́ không vâng
theo ư muốn tối hảo của Thiên Chúa, Đấng
muốn hướng dẫn và thánh hóa con người
bằng chính lề luật thánh của Ngài.
Biết được thân phận tội lỗi của
ḿnh, chẳng những không chịu giữ lề luật
như người Pharisiêu, như "ăn chay, nộp
thuế" v.v., trái lại, c̣n có thể phạm cả
đến lề luật nữa là đang khac, như
"gian tham, bất lương, ngoại t́nh",
người thu thuế chỉ biết đấm ngực
ăn năn, không đổ lỗi cho một cái ǵ khác,
(như trường hợp hai nguyên tổ), mà chỉ xin
Thiên Chúa "là Đấng tốt lành đối với
kẻ vô ơn và gian ác" (Luca 6:35) thông cảm xót thương
lấy ḿnh, hoàn toàn trông cậy vào sự cứu thoát và thánh
hóa của Ngai mà thôi.
Tóm lại, qua dụ ngôn "hai người lên đền
thờ cầu nguyện",
"Trở
nên như trẻ nhỏ" là trở nên đáng
thương trước mặt Chúa, bằng việc chân
nhận t́nh trạng bất toàn và bất lực của
ḿnh, hoàn toàn tin cậy vào một ḿnh Thiên Chúa.
Thông
Điệp T́nh Yêu Nhân hậu
"Hoa tội
lỗi cũng đẹp va lam mê ḷng người,
nhưng tỏa
ra một mùi nôn mửa,
chỉ
cac linh hồn có ân sủng mới phân biệt được.
Hoa thanh
thiện nở ra trong linh hồn trung tín.
Cả tội
nhân cũng ngửi thấy hương thơm dịu của
nó.....
Cac con hăy
tranh xa cac dịp tội,
Cha sẽ
vui thích để cac con nắm giữ được Cha.
Nhưng
hăy đề pḥng!
Tội lỗi
rất tinh tế,
đôi khi
nó nau h́nh dưới những dang vẻ vô tội.
Có những
điều xem như vô hại,
nhưng
thực sự có thể đưa tới tội nặng.
Hăy lấy
t́nh yêu Thiên Chúa
lam can cân
đo lường mọi việc cac con lam.
Hăy nh́n va
phân biệt
bằng
con mất của Thiên Chúa cac con.
Cac con sẽ
nhận ra
sự
gian tra chóng vanh biết bao.
(14/4/1967)
Con hăy nhận rơ sự thấp
hèn của con, rồi con sẽ t́m ra khí giới để
tiêu diệt nó, t́m ra cai thuẫn ma mọi mũi tên của
thù địch bắn vao đều bị gẫy nat:
Đó la sự khiêm nhu thanh thiện,
khí giới vạn năng của những người yếu
đuối cũng như những người hùng mạnh.Đó
chính la ao ma Thiên Chúa của con đă mặc, va Ngai cũng muốn
đem mặc nó cho con. Hỡi con, hăy thực hanh những
điều Cha dạy con, va hăy tin tưởng rằng khiêm
nhượng la con đường nên thanh. (29/6/1967)
Hỡi cac con,
Cha yêu thương cac con biết
bao,
Cha hằng theo đuổi cac
con bằng t́nh yêu, ma cac con th́ từ chối tùng phục luật
yêu, cac con lạc lơng trên những con đường ṃn, có
những đống rac rưởi ngổn ngang ḱm hăm cac
con trong ảo ảnh thấp hèn, tức la những khoai lạc
phù du, giả dối.
Linh hồn con người
hướng về tuyệt đối. Không có ǵ có thể
lam nó hoan toan thỏa măn, v́ duy một ḿnh Cha
có thể ban cho cac con hạnh
phúc ma cac con đang đi t́m với biết bao gay cấn vẫn
không bao giờ đạt tới.
Cac con hăy đến bên Cha ma
xin ơn tha thứ. Cha sẽ an ủi cac con. Cha sẽ
đổi mới cac con. Trai tim Cha
chờ đợi cac con va yêu
thương cac con, mặc dù cac con lỗi lầm va gian ac.
Cac con la những con nhỏ của Cha cac con ở trên trời.
V́ tội lỗi của cac con đă không lam Ngai vĩnh viễn
ngoảnh mặt khỏi cac con. (22/8/1967)
Nếu con cảm thấy yếu
đuối va bất lực, ấy la v́ Cha đă mặc
cho con đức khiêm hạ của một Thiên Chúa bị
hy sinh. Kẻ kiêu căng không quan tâm đến việc nhận
biết ḿnh khốn nạn. (18/12/1967)
Sự khốn khổ của
con lôi kéo ḷng thương xót của Cha, va lam cho ḷng
thương xót đó tran đầy hân hoan.Cac con nhỏ của
Cha, cac con hăy trả lời cho Cha xem, nếu Cha không có ǵ
để tha thứ cho cac con, th́ ḷng thương xót của
Cha dùng để lam ǵ? Nếu phép công thẳng của Cha có
lư do để tồn tại, th́ ḷng thương xót của
Cha lại cang có quyền tồn tại hơn đến
đâu, bởi v́ ḷng thương xót nay phat xuất từ
t́nh yêu của Cha cho cac con. Một ḿnh Thiên Chúa tự hạ
xuống trước những đứa con tội lỗi
khốn khổ của ḿnh, đến độ mở rộng
đôi tay đầy t́nh thương đón lấy chúng.
Ḷng tha thứ va t́nh thương của Người la một,
va tội lỗi của cac con không lam Người măi măi
cach xa cac con đâu. Thật đang thương cho kẻ phạm
tội song biết ăn năn, nhưng thật đang sa
hỏa ngục cho kẻ phạm tội ma không biết thống
hối. (24/10/1969)
Vương quyền của
Cha có thể lam cac con sợ hăi. C̣n t́nh Cha th́ sao?
Đó la t́nh yêu lôi cuốn cac linh hồn tới cùng Cha.
Đó la tiếng kêu gọi cac con cai trung thanh.
Đó la tiếng nhắc nhở cac con dại dột liều
chết.
Đó la ơn tha thứ va cũng la lời cảnh cao.
Đó la sự khiêm tốn của Thiên Chúa đối diện
với sự kiêu căng của con người.
Đó la bai học của Chúa Kitô Vua dạy cho cac con nhỏ
bất phục tùng va vô ư thức.
(1/7/1975)