Ngày 01 Tháng 5
Thánh Augustino SCHOEFFLER ĐÔNG
Linh mục Thừa sai Paris
(1822 - 1851)
Ơn Gọi Loan Báo Tin Mừng
Đối với thánh Augustino Đông: Sứ mệnh loan báo Tin mừng là một nhiệm vụ tông đồ
cao cả nhất, đặc biệt cho những miền truyền giáo xa xăm. Đó là điều thánh nhân
hằng mong ước trước khi gia nhập Hội Thừa sai Paris, mặc cho gia đình nhiều lần
cản trở, thánh nhân đã chọn lựa dứt khoát theo ý Chúa hơn nghe lời cha mẹ trần
gian. Và khi rời đất Pháp, ngài đã nói:
“Tôi không biết điều gì sẽ xảy đến với tôi, nhưng điều tệ nhất có thể đến, đó là
phải chịu một nhát gươm..., nhưng tôi tin rằng người tội lỗi như tôi, sẽ chẳng
đáng được ơn trọng ấy”.
Augustino Schoeffler Đông sinh ngày 22.11.1822 tại Mittelbronn tỉnh Lorraine,
nước Pháp. Từ bé cậu đã tỏ ra là một người đạo đức, chăm học, siêng năng cầu
nguyện và có ý hướng đi tu. Cha xứ nhận đỡ đầu và đưa cậu vào chủng viện địa
phận Nancy. Trong chủng viện, cậu tuân giữ đúng đắn kyœ luật, vâng lời Bề trên,
hòa thuận với bạn bè và học hành xuất sắc, nên được mọi người yêu mến. Sau khi
học triết lý và năm thứ nhất thần học, thầy Schoeffler cảm thấy Chúa kêu gọi
mình đi truyền giáo nên xin phép cha mẹ chuyển qua Hội Thừa sai Paris.
Thời gian đó, những tin tức về công cuộc truyền giáo ở Đông Nam Á gởi về không
lấy gì làm sáng sủa. Đi truyền giáo như là đi vào chỗ chết. Do đó song thân thầy
cố sức ngăn cản. Ông bà nói nhiều lời nặng nề khiển trách con không vâng lời,
Schoeffler đắn đo nhiều, nhưng căn cứ vào Lời Chúa “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì
không đáng làm môn đệ Thầy! (Mt 10:37). Shcoeffler quyết định gia nhập Hội Thừa
sai Paris dù cha mẹ không đồng ý. Khi đó thầy viết thư cho một người bạn: “Than
ôi, để theo chân Chúa Giêsu vất vả quá, vướng đường nọ, mắc đường kia”. Người
bạn đó nhắn nhủ: “Việc giảng đạo là việc quan trọng, nếu tự ý làm mà không được
Chúa gọi, thì có nguy cơ mất linh hồn đó”. Thầy trả lời: “Xin đừng quên lời Kinh
Thánh: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta” (Cv 4:19).
Không Để Ai Liên Lụy
Gia nhập Hội Thừa sai ngày 9.10.1846. Ngày 29.5.1847, thầy Schoeffler được thụ
phong linh mục. Sau đó được gởi đến địa phận Tây Đàng Ngoài. Đức cha Retord Liêu
vui mừng đón tiếp, giữ cha tại trụ sở học tiếng và phong tục Việt Nam, rồi cho
cha tháp tùng trong các cuộc kinh lý để hiểu r tình hình địa phận hơn. Sau đó cử
cha lên coi xứ Đoài. Trong nhiệm sở mới, cha Đông tích cực làm việc mục vụ và
truyền giáo, số người trở lại ngày càng nhiều. Khi vua Tự Đức ra chiếu chỉ cấm
đạo 1848, cha nói: “Kỳ này thế nào trong chúng tôi cũng có kẻ bị chém, chớ gì
người đó là tôi”. Thế nhưng cha vẫn an toàn làm việc được ba năm.
Ngày 1.3.1851, sau khi đến giảng phòng mùa chay cho xứ Bầu Nọ, cha Đông đi đường
rừng qua giảng ở Bản Mộ thì bị quân lính bắt. Thời đó cuộc nổi loạn của Hoàng
Bảo (Trưởng tử của vua Thiệu Trị) mới thất bại, lính tuần định đang truy lùng
các thành viên còn sót lại. Tín hữu Bầu Nọ cũng biết chuyện, nhưng lại chủ quan,
nghĩ rằng lính chỉ đi lùng ban đêm, nên đưa cha Đông đổi chỗ giữa ban ngày,
không ngờ có một tín hữu ham tiền đã đi báo cho quan. Họ bố ráp và bắt cha đang
len lỏi trong rừng rậm. Một linh mục Việt Nam và hai chú giúp lễ cũng bị bắt với
ngài.
Quan Tuần phủ địa phương tuyên bố mình không có ý giải nộp vị thừa sai, và ra
giá chuộc là một nén vàng với một trăm nén bạc, cha Đông trả lời không có số
tiền đó. Nhưng một lát sau, cha chợt hiểu ra rằng những người này dù đòi được
tiền rồi, cũng vẫn nộp mình cho quan lớn như thường, nên cha nói: “Vì quý ông
nhất quyết đòi tiền chuộc, hãy thả những người này về, chỉ có họ mới biết chỗ
tôi để tiền”. Quan tuần tưởng thật nên trả tự do cho linh mục Việt Nam và hai
chú giúp lễ. Phần cha Đông, khi thấy họ đã đi xa, mới nói r ý muốn chỉ một mình
bị bắt thôi.
Tức giận viên quan cho người giải cha lên tỉnh Sơn Tây. Dọc đường gặp một người
tín hữu, cha nói: “Hãy về nói với anh chị em, đừng lo sợ gì hết, dù thế nào tôi
cũng không khai một ai cả”. Khi đến tỉnh, các quan điều tra về quê quán, tên
tuổi, đến An Nam bao lâu, cư trú những nơi nào, có biết vua cấm đạo không, cha
đáp:
“Tôi tên Augustino, quê ở nước Pháp, năm nay 29 tuổi, tôi đến đây để chỉ giảng
đạo Đức Chúa Trời. Tôi đã biết An Nam cấm đạo ngặt, nhưng tôi không sợ xử tử.
Còn việc ở đâu, tôi sẽ không nói, đừng hỏi làm gì”.
Ngày 5 tháng 3 lại bị điệu ra tòa, cha Đông vẫn khai như cũ và cương quyết từ
chối việc đạp lên thánh giá, nên ngày hôm đó, các quan làm án gởi về kinh đô:
Tên Ao-du-tinh là người Tây dám coi thường luật nước đến đây giảng đạo dụ dỗ dân
chúng. Chiếu theo sắc chỉ Đức vua, y phải chịu trảm quyết bỏ đầu trôi sông. Về
những kẻ chứa chấp, thần đã tra hỏi nhưng y không chịu nói. Lý trưởng và những
kẻ có công, xin theo lời truyền, thưởng ba mươi lạng bạc. Riêng viên tuần phủ,
xin thưởng thêm một số nữa”. Tuy nhiên mãi đến tháng 4 năm 1851, nhà vua mới
châu phê bản án.
Suốt một tháng tù, cha Đông bị quản thúc rất chặt chẽ. Một thầy giảng giả làm
lính canh đến gần ngục mà vẫn không dám nói gì. Khi thấy cha, thầy thổn thức
muốn khóc nên phải vội trở ra ngoài ngay sợ bị lộ. Một tín hữu quan hệ riêng
viên cai ngục để vào tiếp tế ít nải chuối, vô tình quan tỉnh đi ngang nhìn thấy,
liền ra lệnh sa thải viên cai ngục đó. Tuy nhiên, dù nghiêm ngặt như thế, cha
Phượng cũng vào giải tội cho ngài được một lần, nhờ giả dạng làm người bán hàng
rong.
Ngày 11 tháng 4 bản án của vua ra đến Sơn Tây: “Trẩm đã cứu xét hồ sơ Tây dương
đạo trưởng ở Sơn Tây. Luật nước đã cấm đạo Giatô. Thế mà tên Ao-du-tinh vẫn cả
gan vào nước ta giảng đạo lừa dối dân. Trẫm truyền trảm quyết, đầu y thì bỏ trôi
sông để răn dạy kẻ khác”. Bản án xác định ngày xử là ngày 1 tháng 5 Dương lịch,
đúng ngày đầu tháng hoa dâng kính Đức Mẹ. Cha Đông nghe tin đó thì vui mừng quỳ
ngay xuống đất tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã xếp đặt cho mình được tử đạo vào ngày đầu
tháng Đức Mẹ.
Ngày Khải Hoàn
Ngày xử diễn ra như một ngày hội. Cha Đông đi chính giữa, hai bên là tám binh sĩ
tay cầm gươm sáng loáng, phía trước là hai hàng lính mỗi hàng năm mươi người,
một hàng cầm súng, hàng kia cầm giáo. Khi có hiệu lệnh, lính ở hai hàng này bắt
chéo súng và giáo làm thành một cổng chào. Phía sau có hai thớt voi trận chở hai
viên quan giám sát. Vị chứng nhân đi giữa đoàn rước, cười tươi tỉnh như ngày
khải hoàn. Cổ mang gông, đầu ngẩng cao, hai tay ôm xích sắt để đi khỏi vướng,
cha thỉnh thoảng nhắm mắt lại cầu nguyện. Đức cha Retord Liêu sau này đã phải
kêu lên: “Đẹp biết bao cái chết của vị tử đạo”. Hầu hết mọi người hiện diện hôm
đó bao quanh cha đều sửng sốt và thán phục.
Khi đến nơi xử, pháp trường Năm Mẫu, cha Đông quỳ xuống cầu nguyện một lát, rồi
cầm thánh giá đeo trên cổ cung kính hôn ba lần, đoạn cởi áo đưa đầu cho lý hình
và nói: “Anh làm nhiệm vụ nhanh lên”. Quan giám sát nghe thấy cản lại: “Không
được, cứ phải chờ đến hồi chiêng thứ ba mới được chém”. Hôm đó, người lý hình
run sợ quá, nên chém ba nhát mà vẫn chưa đứt, phải lấy gươm cắt phần thịt còn
lại. Đầu vị tử đạo bị bỏ trôi sông mất tích. Thi thể ngài được chôn cất tại chỗ
sau hai đêm tín hữu cải lên đem về an táng ở họ Bách Lộc.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Augustino Schoeffler Đông lên bậc Chân Phước
ngày 27.5.1900.
NB: Thánh Augustino Schoeffler Đông cũng là thành viên dòng ba Đaminh. Ngài vẫn
được tôn kính tại các địa phận dòng Đaminh ở Đàng Ngoài. Theo Cothonay, cha
Schoeffler là học trò cha Alex. V. Jandel sau là Bề trên Tổng quyền dòng Đaminh.
Đã lãnh áo dòng ba Đaminh ngày 4.3.1846 tại Nancy (Les XXVI Martyrs OP du
Tonkin, Paris 1906, p.394)
của vị tử đạo”. Hầu hết mọi người hiện diện hôm đó bao quanh cha đều sửng sốt và
thán phục.
Khi đến nơi xử, pháp trường Năm Mẫu, cha Đông quỳ xuống cầu nguyện một lát, rồi
cầm thánh giá đeo trên cổ cung kính hôn ba lần, đoạn cởi áo đưa đầu cho lý hình
và nói: “Anh làm nhiệm vụ nhanh lên”. Quan giám sát nghe thấy cản lại: “Không
được, cứ phải chờ đến hồi chiêng thứ ba mới được chém”. Hôm đó, người lý hình
run sợ quá, nên chém ba nhát mà vẫn chưa đứt, phải lấy gươm cắt phần thịt còn
lại. Đầu vị tử đạo bị bỏ trôi sông mất tích. Thi thể ngài được chôn cất tại chỗ
sau hai đêm tín hữu cải lên đem về an táng ở họ Bách Lộc.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Augustino Schoeffler Đông lên bậc Chân Phước
ngày 27.5.1900.
NB: Thánh Augustino Schoeffler Đông cũng là thành viên dòng ba Đaminh. Ngài vẫn
được tôn kính tại các địa phận dòng Đaminh ở Đàng Ngoài. Theo Cothonay, cha
Schoeffler là học trò cha Alex. V. Jandel sau là Bề trên Tổng quyền dòng Đaminh.
Đã lãnh áo dòng ba Đaminh ngày 4.3.1846 tại Nancy (Les XXVI Martyrs OP du
Tonkin, Paris 1906, p.394)
Đức cha Liêu đón tiếp cha ân cần, đặt tên mới là Hương, tạo điều kiện học ngôn
ngữ và phong tục dân tộc Việt Nam.
Trái Chín của Trời Cao
Sau đó, Đức cha Hương coi hai xứ Kẻ Trình và Kẻ Báng. Mùa chay 1852, cha mời năm
linh mục Việt Nam đến giảng phòng cho xứ Kẻ Bàng, nhiều tín hữu ở chung quanh
cũng đến dự. Cuối tuần tĩnh tâm, một tín hữu ở họ Bối Xuyên mời cha Hương về
giúp cho xứ của mình. Khi đó, vua Tự Đức đã ra chiếu chỉ cấm đạo gay gắt nên cha
lưỡng lự mãi mới nhận lời. Ngày 21.3.1852 tại Bối Xuyên, sau khi dâng lễ, cha
ban bí tích rửa tội và làm nghi lễ bù cho một số trẻ em, thì thấy quân lính đến
bao vây làng. Một viên quan bị cách chức muốn lập công, đã báo tin cho quan
huyện biết. Cha Hương vội cởi áo lễ, chạy băng qua đồng lúa, nhưng vì nước ngập
đến thắt lưng nên không thoát kịp và bị bắt. Trên đường áp giải cha về huyện,
quân lính đi nhanh quá, cha nói với họ rằng: “Anh nào gấp cứ đi trước, còn tôi
lúc nào đến cũng được, chẳng có gì phải vội”, lính mới đi chậm lại.
Đức cha Liêu nghe tin cha bị bắt liền cho người đem tiền đến chuộc, nhưng quan
huyện không tiếp. Đức cha gởi thơ cho cha Hương như sau:
“Theo tính tự nhiên, việc cha bị bắt làm tôi buồn phiền quá đỗi. Tôi rất đau
lòng khi bị mất cha, đang lúc cha có thể đảm trách những nhiệm vụ lớn lao cho
miền truyền giáo. Có thể thấy r rằng cha được hạnh phúc là người con rất yêu dấu
của Đức Kitô khổ nạn, nếu không nghĩ như thế, tôi muốn khiển trách cha. Tại sao
đang ở một nơi có thể phục vụ đắc lực hơn nữa, cha lại bỏ Kẻ Báng để chui đầu
vào ng cụt Bối Xuyên? Tại Kẻ Báng, cha đã gặt hái được biết bao thành quả. Những
bó lúa chín vàng ở đây thật nhiều, thật nặng với những hạt lúa chắc nịch. Tại
đây cha đã ép cho Chúa Cha tràn lan thứ rượu nho là các nhân đức... Thôi, tôi
sẵn sàng tha thứ cho cha, vì chính Thiên Chúa đã muốn thế. Dưới mắt Ngài, cha là
trái cây chín mọng của trời cao, trái cây sắp được Ngài hái về...” (2).
Ngọt Ngào Biết Bao: Đau Khổ vì Đức Kitô
Quan huyện chỉ giam giữ cha một đêm, sáng sớm hôm sau cho áp giải ngài lên tỉnh
Nam Định. Hơn một tháng tù, cha bị đưa ra tòa tra khảo bốn lần. Cũng như các vị
thừa sai khác, quan Tổng đốc hỏi cha về tên tuổi, quê quán, lý do đến và những
gì đã làm tại Việt Nam. Nhiều lần các quan hỏi về những nơi cha đã đi qua hay
trú ngụ, và dọa đánh đòn nếu không khai. Cha đáp: “Các ngài muốn đánh thì đánh,
chứ đừng mong tìm được một lời có hại đến các tín hữu. Tôi đến đây để phục vụ
cho đến chết. Các ngài đã lầm to nếu nghĩ tôi sẽ tiết lộ điều gì dù rất nhỏ”.
Khi các quan nói cha đạp lên thánh giá và dọa kết án tử hình, cha trả lời: “Tôi
đã nói tôi không sợ đòn đánh lẫn cái chết, tôi sẵn sàng chịu tất cả... Tôi không
đến đây để chối đạo, hay làm gươmg xấu cho các Kitô hữu”.
Trong một lá thư, cha Hương tâm sự rằng:
“Nói chung, trong mọi cuộc khảo cung, tôi có kinh nghiệm cụ thể hiệu lực lời Đức
Kitô: “Các con đừng sợ phải trả lời gì với các quan trần thế, Chúa Thánh Linh sẽ
nói thay cho các con” (Mt 10:20). Thực vậy, tôi không thấy bối rối chút nào,
không thấy sợ gì và chưa bao giờ tôi nói tiếng Việt Nam lưu loát và dễ dàng đến
thế”.
Thứ Sáu Tuần Thánh năm đó, Đức cha Liêu tìm cách gởi cha Lê Bảo Tịnh vào ngục
giải tội và đưa Mình Thánh. Cha Hương tâm sự: “Đã lâu chưa bao giờ tôi vui đến
thế, khi mang trong mình Vua các thiên thần. Quả thật, cần phải vô tù mang gông
xiềng để hiểu được việc chịu đau khổ vì Đức Kitô, Đấng chúng ta hằng yêu mến,
thật ngọt ngào biết bao. Các bạn tưởng gông cùm của tôi nặng lắm sao? Ồ không,
ngược lại tôi thấy vui mừng vì tôi biết gông xiềng của Đức Kitô còn nặng hơn bội
phần. Tôi vui mừng vì có thể nói như Thánh Phaolô: “Người tù của Đức Kitô”.
Cha Hương cũng viết thư an ủi song thân rằng “Cha mẹ đừng buồn khi hay tin con
bị bắt giam và đổ máu vì Đức Kitô. Cha mẹ có yêu con thì hãy vui mùng vì con
được phúc trọng ấy... Sẽ có ngày cha mẹ và con đoàn tụ trên Thiên đàng, khi đó
chẳng còn lo phải xa cách nhau nữa”.
Về phần các quan, thấy không làm được cha xuất giáo, thì viết án gởi về kinh đô
rằng: “Chúng thần tra khảo nhiều lần nhưng y không chịu khai gì cả. Không cần
kéo dài vụ án nữa, đây là tên mọi Tây, một trọng phạm, hiển nhiên là đáng bị tử
hình...”.
Nhận được tin về bản án, Đức cha Liêu viết vào tù:
“Xin cha cứ bình an... Tôi sẽ săn sóc đặc biệt những bạn tù và những tín hữu của
cha. Tôi sẽ là một người cha nhân từ của họ... Cha xin tôi ban phép lành, nhưng
tôi đã chúc lành cho cha từ ngày cha mới đến, ơn lành đó vẫn ở với cha đến bây
giờ. Phải, tôi đã chúc lành cho cha khi đặt tên cha là “Cố Hương”... Nguyện xin
sức mạnh của Chúa Cha nâng đỡ cha trên đấu trường cha sắp bước vào. nguyện xin
công nghiệp Chúa Con an ủi cha trên đồi Canvê cha sắp bước lên. Và nguyện xin
tình yêu Chúa Thánh Thần sưởi ấm cha trong ngục tù, nơi cha sẽ khởi hành đi đón
nhận ngành vạn tuế tử đạo”.
Trong Tay Ngài, Lạy Chúa
Và đây là bản di chúc của vị chứng nhân: “Giờ long trọng đã điểm. Vĩnh biệt, xin
chào tất cả mọi người đã thương mến và nhớ đến tôi. Xin hẹn gặp nhau trên
trời... Trông cậy vào lòng nhân từ Đức Giêsu, tôi tin Ngài tha thứ muôn vàn tội
lỗi cho tôi. Tôi tự nguyện hiến dâng máu và mạng sống vì yêu mến Ngài, và vì
những linh hồn yêu đấu mà tôi muốn phục vụ hết mình. Ngày mai, thứ Bảy mồng 1.5,
lễ Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ, giáp năm ngày sinh nhật trên trời của cha
Đông, tôi nghĩ sẽ là ngày hiến tế của tôi. Xin cho ý Chúa được thể hiện. Tôi vui
lòng chịu chết. Xin chúc tụng Chúa. Xin chào tất cả trong Thánh Tâm Chúa Giêsu
và Mẹ Maria. Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con. Người tù của
Đức Kitô”.
Sáng 1.5.1852, cha Hương rước lễ lần cuối, vui vẻ theo quân lính ra pháp trường
Bảy Mẫu, cách đó một dặm rưỡi về phía Nam. Đến nơi, cha quỳ trên chiếu cầu
nguyện. Cha phải chờ một giờ đồng hồ, vì quân lính quên mang dụng cụ tháo gông,
phải chạy về nhà kiếm. Sau đó, họ trói vị chứng nhân vào cọc. Theo hiệu chiêng
trống, lính chém đầu cha rơi trên cát. Dân chúng ùa vào thấm máu làm kyœ niệm,
nhưng lính dùng roi đuổi tất cả ra xa, sau đó họ lấy áo ngoài, áo lót và hai ống
quần cắt ra làm nhiều mảnh bán cho dân. Thân mình và đầu vị tử đạo được đưa lên
thuyền bỏ trôi sông. Đức cha Liêu đã cho người đi một chiếc thuyền lảng vảng gần
đó kịp thời vớt đưa về Vĩnh Trị. Đêm đó, Đức cha và vài linh mục âm thầm dâng lễ
và an táng vị tử đạo trong chủng viện.
Ngày 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Gioan Louis Bonnard Hương
lên bậc Chân Phước.