Ngày 12 Tháng 7
Thánh Ignatio DELGADO Y
Giám mục ḍng Đaminh
(1762 - 1838)
Chiến Sĩ Truyền Giáo
Với gần nửa thế kyœ hăng say trong việc truyền giáo tại Việt Nam và bốn mươi ba
năm Giám mục, cuộc đời Thánh Ignatio Y gắn liền với địa phận Đông Đàng Ngoài,
nay là năm địa phận: Hải Pḥng, Bùi Chu, Bắc Ninh, Lạng Sơn và Thái B́nh. Hoạt
động của Ngài trải qua dài trên ba triều đại: thời Cảnh Thịnh với những khó khăn
từng khu vực giúp ngài nhận định được nhu cầu, để đến thời Gia Long, ngài phát
triển địa phận Đông tới mức cực thịnh, đủ sức đương đầu với những cơn giông tố
bách hại thời Minh Mạng, và đó cũng là mùa gặt phong phú “các Thánh Tử Đạo” của
địa phận. Số linh mục bản xứ, số tu sĩ nam nữ, số giáo dân tăng nhanh mỗi năm đă
là những chứng cớ hùng hồn nhất cho chúng ta thấy nhiệt t́nh và tài lănh đạo của
Ngài.
Ư Chúa Nhiệm Mầu
Ignatio Delgado Y sinh ngày 23.11.1762 tại làng Villa Feliche, tỉnh Saragozza
miền Aragon, Tây Ban Nha. Từ thuở niên thiếu, Delgado chịu ảnh hưởng nhiều của
các nữ tu Xitô. Say mê đọc sách, cậu nghiền ngẫm tối ngày những truyện tích của
các d́, hơn nữa khu làng của cậu từ núi đồi đồng cỏ, đất đai đến cây rừng đều
ghi dấu những nữ tu áo trắng, con cái Thánh Bernado này. Do đó cậu đă nuôi chí
dấn thân phục vụ Chúa trong đan viện.
Thế nhưng Chúa lại an bài cách khác. Ngày kia, một người bạn có ư định đi tu
ḍng Đaminh rủ cậu cùng đi, Delgado liền nhận lời. Sau đó cả hai đến gơ cửa tu
viện Thánh Phêrô Tử đạo ở Catalayud, thuộc tỉnh ḍng Aragon. Cậu vào năm tập khi
18 tuổi và khấn năm 1781. Đang khi theo học tại đại học Orihuela, Delgado được
biết việc truyền giáo của ḍng tại Đông Nam Á. Trong thư ngày 25.6.1780, cha
chính Alonso Phê ở Việt Nam báo cáo số người và công việc, đă xin gởi thêm nhiều
nhà truyền giáo “nhân đức, thông thái và can đăm”. Delgado thấy ḷng ḿnh sục
sôi ư muốn đi truyền giáo. Năm 1785, sau khi bàn hỏi với các bề trên, Delgado
xin chuyển qua tỉnh ḍng Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi và được gởi tới Manila Phi
Luật Tân để tiếp tục học tập.
Vị Giám Mục Trẻ Trung
Năm 1787, thầy Delgado được thụ phong linh mục. Hôm sau, trong số mười lăm tu sĩ
t́nh nguyện đến Việt Nam, bề trên chọn Delgado và một người nữa. Thế nhưng nước
Việt khi đó đang có nội chiến, nên hai vị thừa sai phải lưu lạc hết Macao đến
Malacca rồi lại trở về Macao. Cuối cùng, năm 1790 cha mới đến được đất truyền
giáo cùng với ba thừa sai khác trong đó có cha Henares Minh. Tuy mới tới Việt
Nam, nhưng mọi người đă nghe đồn về tài năng và nhân đức của cha Delgado khi c̣n
ở Manila, nên đă quư mến cha cách đặc biệt. Sau vài tháng học tiếng Việt, cha
được cử coi sóc chủng viện hai năm. Làm cha chính địa phận hai năm, kiêm chức
đại diện coi sóc các cha ḍng Đaminh. Sự khôn ngoan và nhân đức của cha được xác
nhận khi Đức cha Alonso Phê đệ tŕnh lên Ṭa Thánh xin đặt cha làm Giám mục phó
có quyền kế vị. Đức Piô VI đă chính thức công nhận trong đoản sắc ngày
11.2.1794, nhưng măi tháng 9 năm sau nghi lễ tấn phong mới được cử hành trong
niềm vui của toàn địa phận. Vị tân Giám mục khi đó mới 33 tuổi.
Các sử gia ghi nhận Đức cha Ignatio Y đă thích ứng được với miền truyền giáo
ngay từ những ngày đầu, từ khí hậu, ngôn ngữ đến phong tục và những món ăn địa
phương. Bốn năm coi chủng viện và làm cha chính giúp ngài hiểu biết rơ về t́nh
h́nh địa phận cũng như các giáo sĩ. Giờ đây với chức vụ mới, ngài là vị cộng tác
đắc lực và hữu hiệu của Đức cha Alonso Phê trong việc quản trị và truyền giáo.
Tháng 8.1798, khi vua Cảnh Thịnh ra sắc chỉ cấm đạo, triệt hạ các nhà thờ, bắt
bớ các thừa sai linh mục và thầy giảng, ép buộc các tín hữu bỏ đạo, Đức cha
Delgado Y liền viết thư luân lưu cho các giáo sĩ thu cất các đồ thờ, nếu phải ẩn
trốn, th́ cũng đừng đi quá xa, để có thể tiếp tục gặp gỡ phục vụ các tín hữu.
Đặc biệt Đức cha tin tưởng vào sức mạnh từ trời cao khi kêu gọi các tín hữu ăn
chay những ngày thứ Tư, và đọc kinh cầu các thánh hằng ngày cầu xin ơn b́nh an.
Trong báo cáo gởi vể cho tỉnh ḍng mẹ, Đức cha viết: “... các giáo sĩ phải ẩn
trong hầm hố, trong rừng sâu hay trên đồng vắng, nhưng vẫn lén lút cải trang về
thăm các giáo hữu”. Riêng hai vị Giám mục vẫn tiếp tục đi thăm viếng hết xứ này
đến xứ khác trong địa phận. Một hôm, Đức cha Phê đi kinh lư tại khu vực trấn
Kinh Bắc (Bắc Ninh), th́ bị sốt rét và qua đời tại Lai Ổn ngày 2.2.1799, trút
hết gánh nặng địa phận cho Đức cha Y. Trong bài giảng lễ an táng, Đức cha Y nhắc
lại mẫu gương và lời kinh vị tiền nhiệm thường đọc là: “Lạy Chúa, xin hăy nung
đốt con, cưa cắt con, đừng dung tha con ở đời này, để con được thứ tha muôn
đời”. Đức cha Y đă nối tiếp truyền thống và mẫu gương đó, suốt đời chấp nhận
gian khổ và không quản ngại khó khăn để phục vụ Chúa trong tha nhân.
Khôn Ngoan và Can Đảm
Công việc Đức cha quan tâm nhất là đến thăm tất cả các họ đạo dù đường xá xa xôi
trắc trở đến đâu. Từ đầu năm 1803, công tác này được san sẻ cho vị tân Giám mục
phó Henares Minh (thụ phong ngày 9.1.1803). Lúc đó đường xá miền Bắc không được
như bây giờ, hai vị Giám mục đă phải đi hàng ngàn cây số đường ṃn, bờ đê, phải
xuyên rừng leo núi... thế mà không họ lẻ nhỏ nhất nào không được các vị đến thăm
nhiều lần. Tại mỗi nơi, các ngài đưa ra những chỉ thị cụ thể, sửa lại những lạm
dụng, trừ diệt những thói dị đoan và xóa bỏ tệ nạn cho vay nặng lăi.
Suốt thời đại Gia Long và những năm đầu thời Minh Mạng, tuy c̣n một vài vụ bắt
bớ ở địa phương, nhưng nói chung đây là thời tương đối b́nh an nhất. Đức cha Y
đă tận dụng giai đoạn nầy để tổ chức địa phận vững chắc hơn. Ngài quan tâm nhiều
đến việc đào tạo linh mục bản xứ, củng cố chủng viện, nhất là tại Ninh Cường,
Lục Thủy, Tiên Chu và Ngọc Đồng. Số linh mục chỉ mười năm sau đă tăng gấp đôi
(năm 1810 có 54 linh mục Tây và Việt). Là thành phần ḍng Đaminh Đức cha được sự
hổ trợ tích cực của tỉnh ḍng mẹ về nhân sự trong địa phận, thế nhưng chủ yếu
ngài đào tạo linh mục triều, rồi sau khi đă làm linh mục, nếu ai muốn, mới xin
chuyển qua ḍng. Ngoài mười sáu cha ḍng Việt cũ, thời Đức cha Y có thêm sáu
mươi sáu cha ḍng người Việt, hỗ trợ trong công tác mục vụ và truyền giáo, sát
cánh với các linh mục triều.
Suốt hai mươi năm thái b́nh, các tín hữu được tự do tham dự kinh lễ mỗi ngày,
nên được học hỏi về giáo lư kỹ lưỡng hơn và sống đạo tốt hơn. Nhiều nơi tổ chức
những nghi lễ công khai và long trọng, lôi cuốn các anh em lương dân đến dự rồi
t́m hiểu và bỏ được nhiều thành kiến nghi kỵ với đạo. Thí dụ trước đây họ thường
trách người theo đạo là bỏ cha mẹ tổ tiên, nay mới hiểu được trong đạo có những
lễ nghi chôn cất, giổ chạp cũng trang nghiêm và đầy ư nghĩa. Dần dần số người
xin theo đạo ngày càng đông. Chỉ trong mười năm có hơn 10.000 người lớn xin rửa
tội. Con số 114.000 tín hữu khi Đức cha Y nhận quyền địa phận đă tăng lên
160.000 vào năm 1815, với gần 800 họ đạo (1).
Ư thức trách nhiệm ḿnh đối với tiền nhân, Đức cha ủy nhiệm một số người và đích
thân điều hành việc nghiên cứu cuộc đời sự nghiệp hai linh mục tử đạo tại Hà Nội
năm 1773 là cha Castaneda Gia và Vinh Sơn Liêm. Năm 1818 Đức cha hoàn tất hồ sơ
xin phong thánh và gởi về Roma.
Những năm đầu thời Minh Mạng, ôn dịch hoành hành khắp nơi, có tỉnh chết hàng
chục ngàn người, kinh tế kiệt quệ, mọi người khiếp sợ, lương dân cũng như giáo
hữu chạy vào nhà thờ xin nước thánh, nhà vua không dám ra khỏi cung điện. Tiếp
đến là mất mùa, hạn hán và đói khổ. Nhân cơ hội này, Đức cha Y cổ động các thừa
sai và tín hữu thể hiện ḷng bác ái, săn sóc các bệnh nhân, cứu trợ người túng
thiếu... khiến mọi người kính nể.
Giông Tố Mở Màn
Những chiếu chỉ cấm đạo 1825 và 1833, không được thi hành triệt để ở địa phận
Đông Đàng Ngoài, các quan có thiện cảm với đạo, lại pḥ Lê hơn pḥ Nguyễn, nên
báo cáo với vua cho có h́nh thức. Bất ngờ ngày 17.4.1838, thầy Vũ văn Lân, thầy
giảng của cha Viên về ṭa Giám mục lănh dầu thánh, mang theo sáu lá thư (cho hai
Đức cha, hai linh mục thừa sai và hai linh mục Việt), bị phát hiện và bị bắt.
Tổng đốc Trịnh Quang Khanh hí hửng đưa sáu lá thư về khoe với vua. Tuần phủ Hưng
Yên liền bị cách chức, Trịnh Quang Khanh bị triệu về kinh khiển trách. Tướng Lê
văn Đức dẫn thêm hai ngàn lính kinh đô ra hỗ trợ việc bắt đạo, băo tố bắt đầu
bùng lên trên miền đất Nam Định. Nhiều mật thám được phái đi len lỏi khắp nơi.
Hai chủng viện Ninh Cường, Lục Thủy và nhiều nhà chung nhà phước tự rỡ xuống để
tránh sự ḍm ngó. Các chủng sinh phải giải tán, các nữ tu phải trở về gia đ́nh,
giáo hữu phải tự t́m chỗ ẩn. Hai Đức cha và hai thừa sai đến náu thân tại làng
Kiên Lao.
Con Đường Thập Giá
Kiên Lao là một làng lớn, nguyên số tín hữu cũng lên đến năm ngàn người. Các kỳ
mục trong xứ thu xếp cho hai Đức cha và hai thừa sai ở bốn nhà khác nhau. Gần
chỗ Đức cha Ignatio Y trốn có thầy đồ Hy, các kỳ mục cẩn thận đến điều đ́nh xin
ông tạm dời chỗ dạy học. Thấy lạ, thầy đồ gạn hỏi các học sinh và biết được có
người Âu châu núp, liền đi báo với các quan. Ngày 27.5.1838 khoảng hai trăm lính
đến bao vây làng Kiên Lao dưới sự chỉ huy của quan Lê văn Thế. Họ kiểm tra qua
loa rồi bỏ đi. Các thừa sai tưởng yên ổn, nên sinh hoạt b́nh thường. Không ngờ
ngay sáng hôm sau, quân lính trở lại và bao vây đúng những nhà các ngài đang ẩn.
Cha Jimeno Lâm và cha Hermosilla Vọng nhanh chân trà trộn vào đám đông chạy
thoát. Đức cha Henares Minh được đưa đi trốn ở nhà khác (một tuần sau mới bị
bắt). C̣n Đức cha Y đă 76 tuổi, được anh em tín hữu khiêng đi trên vơng bị lính
nhận ra, đuổi theo và bắt tại chỗ. Họ trói Đức cha nằm trong vơng và vác về đ́nh
làng, vừa đi vừa reo ḥ mừng rỡ, quên cả việc bắt các thừa sai c̣n lại.
Viên quan hỏi Đức cha: “Ông từ đâu đến?”. Ngài đáp: “Tôi ở nơi khác mới đến làng
nầy, họ chẳng liên hệ ǵ đến tôi". Quan nói: “Ông đă bị bắt, ông có thể tự vẫn
như những người dũng cảm thường làm”. Đức cha trả lời: “Chúng tôi không được tự
vẫn, v́ đó là trọng tội. Nhưng nếu v́ đạo, quan truyền giết tôi, th́ tôi hết sức
vui mừng”.
Chiều đến Đức cha được đưa về phủ Xuân Trường. Đêm đó quan Lê văn Thể truyền
nhốt Đức cha vào một cũi gỗ bốn phía có các hàng song như cũi giam thú dữ, các
song gỗ được đóng liền sát với nhau, không thể nào tḥ tay ra ngoài. Trên nóc
ông cho trổ một cửa nhỏ để đưa cơm nước cho tù nhân. Chiếc cũi thấp tè, khiến
người bị giam không bao giờ đứng thẳng được, đó sẽ là căn nhà của Đức cha từ nay
cho đến chết.
Về phần Tổng đốc Trịnh Quang Khanh, khi nghe tin liền gởi một trăm lính đến hỗ
trợ, áp giải từ phủ về tỉnh Nam Định mười một giờ trưa ngày 30 tháng 5 tất cả
các quan tỉnh cùng hai ngàn người lính đón chờ “con mồi vĩ đại” mới bắt được. Cờ
xí rợp trời, trống cái trống con, chiêng la vang dội... Thế là họ đă vô t́nh đón
rước người anh hùng đức tin với nghi thức một Quân vương. C̣n vị anh hùng, ngài
quỳ gối cầu nguyện trong cũi, tay không rời cuốn sách vẫn đem theo từ lúc bị
bắt, có lẽ là cuốn sách nguyện.
Không thể kể cho xiết những nỗi khốn cực Đức cha phải chịu suốt bốn mươi ba ngày
bị giam trong cũi. Ăn uống th́ thiếu thốn, rồi những buổi tra hỏi, những lời xỉ
nhục chửi bới, có người c̣n nhổ nước miếng vào mặt. Sau những buổi hỏi cung,
quân lính khiêng cũi ra bỏ cửa Tây của thành. Ḿnh ngài lúc nào cũng nhễ nhăi mồ
hôi dưới sức nóng mặt trời hoặc lạnh cóng v́ sương đêm giá rét. Thế nhưng ngoài
những lời khai về lư lịch bản thân, Đức cha không tiết lộ một người hay một vùng
nào liên hệ.
Thỉnh thoảng Đức cha nói với quan và lính rằng: “Các ngài chưa biết về đạo Chúa
Giêsu, nếu các ngài biết, hẳn các ngài sẽ theo đạo”.
Ngày 14 tháng 6 Trịnh Quang Khanh gởi bản án về hoàng cung, nhưng vua Minh Mạng
không châu phê, v́ vua muốn vị thừa sai nhận tội “làm mật thám”. Dĩ nhiên ngài
không thể nhận điều vu cáo ấy được. Một hôm ngài nói với quan: “Tôi ở An Nam đă
bốn mươi tám năm, tôi có giấy tờ của Tiên Đế (Gia Long) cho phép giảng đạo. Xin
quan cứ dẫn tôi về triều đ́nh, nếu vua muốn nướng thịt tôi mà ăn tôi cũng
chịu... Xin đừng để lâu kẻo quân lính phải canh coi vất vả làm ǵ?.
Dẫn Đến Vinh Quang
Án xử lần thứ hai được gửi vào kinh được vua châu phê ngay, nhưng bản án chưa
kịp về tới Nam Định, th́ Đức cha đáng kính đă từ trần. Với tuổi già 76, cộng với
sức yếu v́ bệnh tật, một tháng rưỡi trong cũi đă làm Đức cha kiệt sức và an nghỉ
trong Chúa ngày 12.7.1838 sau bốn mươi ba năm làm Giám mục. Quân lính thấm dầu
vào vải, quấn quanh ngón chân, đốt thử xem chết thật chưa, rồi báo cho quan Tổng
đốc hay. Quan quyết định: “Cứ thi hành mọi sự như án đă đề ra, để mọi người biết
tội y nặng nề đường nào”.
Quân lính liền khiêng cũi Đức cha ra pháp trường Bảy Mẫu, đưa thi thể ra ngoài,
rồi chém đầu trước sự hiện diện của quan giám sát và một vài tín hữu. Thi hài vị
tử đạo được các tín hữu đem về an táng tại bàn thờ một thánh đường đă bị phá hủy
ở Bùi Chu. Thủ cấp Đức cha bị treo nơi công cộng ba ngày, rồi ném xuống sông Vị
Hoàng. Hơn ba tháng sau một người đánh cá vớt được, đưa về an táng chung với thi
hài của ngài.
Ngày 27.5.1900 Đức Lêo XIII suy tôn vị Giám mục ḍng Thuyết Giáo, Ignatio Y lên
bậc Chân Phước.
(1): Sử kư địa phận Trung, tr.58.
Ngày 12 Tháng 7
Thánh Anê LÊ THỊ THÀNH (Bà Thánh Đê)
(1781 - 1841)
Thánh Nữ Tiên Khởi Việt Nam
Nh́n lại lịch sử Giáo Hội Công giáo Việt Nam, số chị em phụ nữ góp phần xương
máu làm chứng đức tin không phải là ít. Tuy nhiên tinh thần kiên cường bất khuất
v́ đức tin Kitô giáo của Thánh nữ Anê Lê thị Thành là một mẫu gương hiếm có.
Chính quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh nổi tiếng “Hùm xám tỉnh Nam” (Nam Định)
cũng đành phải bất lực trong việc thuyết phục bà chối đạo. Quan áp dụng nhiều
phương thế từ khuyên dụ ngon ngọt đến tra tấn nhục h́nh gông xiềng đ̣n đánh đến
tan nát thân ḿnh, cũng không thể lung lạc đức tin trung kiên của Thánh nữ.
Những giọt máu tung tóe v́ đ̣n vọt đă trở nên những bông hồng kết thành triều
thiên tử đạo, phần thưởng tuyệt hảo Thiên Chúa trọng thưởng bà Anê Lê thị Thành,
Thánh nữ tiên khởi của Giáo Hội Công giáo Việt Nam.
Người Mẹ Gương Mẫu
Anê Lê thị Thành sinh khoảng năm 1781 tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, tỉnh
Thanh Hóa. Ngay từ nhỏ cô Thành đă theo mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc, một giáo xứ
lớn nay thuộc địa phận Phát Diệm, tỉnh Ninh B́nh. Năm 17 tuổi, cô kết hôn với
anh Nguyễn văn Nhất, người cùng xă, và sống với nhau rất hạnh phúc, thuận ḥa,
sinh hạ được hai trai tên Đê, Trân và bốn gái: Thu, Năm, Nhiên, Nụ. Tục lệ địa
phương thường gọi cha mẹ bằng tên người con đầu ḷng, v́ thế mới có tên ông Đê,
bà Đê. Hai ông bà sống hiền làm đạo đức, rất quan tâm đến việc giáo dục con cái.
Cô Lucia nụ, con gái út, cung khai khi giáo quyền thẩm vấn trong việc điều tra
phong thánh như sau:
“Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng tôi
đọc chữ và học giáo lư, sau lại dạy cách tham dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.
Người không để chúng tôi biếng nhác việc xưng tội. Khi chúng tôi lơ là, người
thúc giục chúng tôi bằng được mới thôi. Người cho chúng tôi nhập hội Con Đức Mẹ,
vào ban thiếu nữ thưa kinh ở nhà thờ”.
Một người con khác, cô Anna Năm cũng xác minh:
“Song thân chúng tôi chỉ gả các con gái cho những thanh niên đạo hạnh. Sau khi
tôi kết hôn, thân mẫu thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt
lành. Có một lần người dạy tôi: “Tuân theo ư Chúa con lập gia đ́nh là gánh rất
nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng căi lời cha mẹ chồng. Hăy vui ḷng nhận
thánh giá Chúa gởi cho”.
Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi:
“Hai con hăy sống ḥa hợp, an vui, đừng để ai nghe chúng con căi nhau bao giờ”.
Bà Anê Đê thật là tấm gương sáng về đạo hạnh cho các bà mẹ Công giáo.
Từ Bác Ái Đến Tử Đạo
Ông bà Đê có ḷng bác ái hay thương giúp người, nhất là trọng kính và sốt sắng
giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà
đặc biệt để các linh mục thừa sai trú ẩn. Chính đức bác ái đó đă đưa bà Đê đến
phúc tử đạo. Tháng 3.1841 đời vua Thiệu Trị, có bốn linh mục hiện diện tại làng
Phúc Nhạc. Cha Berneux Nhân ở nhà ông tổng Phaolô Thúc, cha Galy Lư ở nhà ông
trùm Cơ, cha Thành ở nhà bà Đê và cha Ngân ở một nhà khác.
Một người tên Đễ theo giúp cha Thành muốn lập công và tham tiền đă mật báo tin
các linh mục trú ẩn cho quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Chính quan Tổng đốc
đích thân chỉ huy năm trăm lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc vào đúng sáng
ngày lễ Phục Sinh (14.4.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính
lục soát từng nhà. Hai cha Thành và Ngân may mắn trốn thoát kịp. Cha Nhân vừa
dâng lễ xong vội rời nhà trọ, sang trốn trên gác bếp nhà Phước Mến Thánh Giá,
nhưng vô t́nh để gấu áo ra ngoài kẽ ván nên bị bắt trước nhất. Cha Lư được ông
trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở
sau vườn cạnh một bụi tre:
“Xin cha ẩn dưới rănh này, Đức Chúa Trời ǵn giữ th́ cha thoát, bằng không th́
cha và con cùng bị bắt”.
Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ lấy rơm và cành khô che phủ lên. Nhưng quân
lính đă trông thấy cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lư và bà Đê, chủ
nhà. Ông trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá là Anna
Kiêm và Anê Thánh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đ́nh làng. Nhà
bà Đê bị lục soát, thóc lúa đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt,
bà Đê rất sợ hăi, nhưng khi điệu bà ra đ́nh làng th́ gương mặt bà lại vui tươi
không c̣n vẻ sợ sệt ǵ nữa.
Mặc Áo Bông Hồng
Quân lính áp giải các nạn nhân về Nam Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà
Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới
thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan
ṭa bắt bà chối đạo, bà đáp:
“Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời...”
Các quan truyền đánh đ̣n bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng thanh củi lớn
quất vào chân bà. Bà không nản ḷng, khi chồng đến thăm, bà giải thích v́ sao bà
được kiên tâm như vậy:
“Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông c̣n không chịu nỗi, nhưng tôi đă
được ơn Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn”.
Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba, thấy bà Đê vẫn một ḷng trung kiên, quân lính
được lệnh vừa đánh vừa lôi bà bước qua thánh giá. Nhưng bà sấp ḿnh xuống đất,
kêu lớn rằng:
“Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ ḷng tin Chúa,
nhưng v́ con là đàn bà yếu đuối, nên họ sùng sức mạnh để cưỡng bách con đạp lên
thánh giá”.
Lần tiếp theo ra trước ṭa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong
áo, nhưng bà Đê đă giữ được b́nh tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc
nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài ṿng rồi ḅ ra. Các quan truyền đánh bà dữ
hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đă kiệt sức, đi không nổi phải có người
d́u. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết: “Bà Anê Đê đă bị đánh đập tàn bạo
đến nổi thân ḿnh bà đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và c̣n muốn chịu khó hơn
nữa”. Quả thật bà đă thể hiện trọn vẹn mối phúc thứ tám:
Tin yêu Chúa Tể muôn trùng,
Tan vàng nát ngọc chữ trung một ḷng.
Cô Lucia Nụ đến thăm mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương
mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan:
“Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui ḷng chịu khổ v́ Chúa Giêsu, sao
con lại khóc”.
Bà c̣n khuyên:
“Con hăy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt
sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh giá Chúa Giêsu đến
cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên đàng”.
Ngoài những cực h́nh tra tấn nặng nề và ăn uống kham khổ, bà c̣n phải chịu thêm
nỗi đau đớn của bệnh kiết lỵ. Hai nữ tu tận tâm săn sóc bà, các linh mục gởi
thuốc, đến thăm, ban bí tích giải tội, xức dầu và giúp bà trong giờ hấp hối.
Người ta thường nghe bà cầu nguyện:
“Lạy Chúa, Chúa đă chịu chết v́ con, con hết ḷng theo Thánh ư Chúa. Xin Chúa
tha mọi tội lỗi cho con”.
Cuối cùng bà dâng lời sau hết:
“Giêsu Maria Giusu, con xin phó linh hồn và thân xác con trong tay Chúa, xin ban
ơn cho con được tuân theo ư Chúa trong mọi sự”.
Bà Anê Đê đă về Nhà Cha trên trời trong tinh thần thánh thiện ấy. Hôm đó là ngày
12.7.1841, sau ba tháng bị giam cầm hy sinh v́ đức tin. Bà hưởng thọ 60 tuổi.
Theo tục lệ, người lính cho đốt ngón chân bà để biết chắc nạn nhân không c̣n
sống. Họ tẩm liệm thi hài vào quan tài do nhà chung đem tới, rồi an táng tại
pháp trường Năm Mẫu. Sáu tháng sau, giáo hữu cải táng về Phúc Nhạc.
Ngày 2.5.1909, Đức Giáo Hoàng Piô X đă suy tôn Chân Phước cho bà Anê Lê thị
Thành. Bà thực xứng danh là gương mẫu và là Bổn mạng các bà mẹ Công giáo Việt
Nam.
Ngày 12 Tháng 7
Thánh Phêrô KHANH
Linh mục
(1780 - 1842)
Niềm Vui Ngày Mùa
Cuộc đời Thánh Phêrô Khanh gợi lên cho chúng ta một h́nh ảnh mùa gặt phong phú.
Một người “đổ mồ hôi gieo giống trên nương đồng, đến ngày thu hoạch th́ vui ca,
tay ôm bó lúa chín vàng lựng hương” (Tv 124). V́ giữa những ngày bị bách hại đen
tối, khi chủng viện chính thức bị giải tán, cha Khanh là người đă đào tạo được
bốn mươi chủng sinh trong số đó thành đạt được tám linh mục.
Dắt D́u Nhau Mà Đi
Phêrô Khanh sinh khoảng năm 1780 tại làng Nguyên Kiệt, xă Hoa Duệ, tỉnh Nghệ An.
Ngay từ nhỏ, cha mẹ cậu đă gởi cậu vào trong nhà xứ để được đào tạo thành thầy
giảng. V́ nhiệt thành với Giáo Hội và thấy rơ nhu cầu dân Chúa, thầy Khanh xin
phép và được bề trên chấp nhận cho học thêm để trở thành linh mục. Nếu xưa kia
Thánh Ignatio đă ngoài ba mươi tuổi c̣n cắp sách đến trường, th́ thầy Khanh năm
hai mươi lăm tuổi mới bắt đầu vật lộn với những mẫu chia danh từ Latinh đầu
tiên. Suốt mười bốn năm liền, thầy kiên tŕ tự học, t́m các linh mục để học hỏi
thêm và cuối cùng thầy được toại nguyện. Năm 1819, khi đă ba mươi chín tuổi,
thầy được thụ phong linh mục.
Như một nhà thám hiểm leo núi, khi đă tới đỉnh núi, nh́n thấy cả một bầu trời
rộng lớn bao la, th́ muốn mời gọi nhiều người cùng lên cao với ḿnh. Cha Khanh
sau khi lănh sứ vụ linh mục, nh́n thấy rơ hơn cánh đồng Việt Nam bát ngát c̣n
thiếu thợ gặt, biết bao tín hữu cần người săn sóc truyền giảng tin mừng cứu độ.
Cha thấy rơ số các vị thừa sai và linh mục bạn nằm xuống trong cuộc bách hại,
việc truyền giáo đang cần những bàn tay kế thừa và phát triển. Do đó, tuy bận
rộn với việc mục vụ, cha đầu tư mọi khả năng của ḿnh đào tạo linh mục tương
lai.
Theo sự điều động của địa phận, cha phục vụ tại nhiều nơi: họ Trai Lẻ, họ Quỳnh
Lưu, rồi sau đến các xứ Thọ Kỳ, Thọ Ninh, Long Trương, Ngàn Sáu. Nhưng ở bất cứ
nhiệm sở nào, bất cứ lúc nào, nhà cha cũng là một tiểu chủng viện thu hẹp. Cha
nuôi một số thiếu niên nam, dạy dỗ. Với t́nh yêu của người cha, với sự thận
trọng tinh tế của một nghệ sĩ, cha chú tâm vào việc đào tạo những nhà lănh đạo
tương lai trong Giáo Hội.
Bên cạnh những bài học và lời giáo huấn, chính đời sống cha là một mẫu gương
sống động cho họ, khi cha dâng lễ, mọi người như gặp gỡ được Thiên Chúa. Khi cha
giảng, mọi người đều thấy sốt sắng thêm lên. Không bao giờ cha ngại ngùng với
bất cứ điều ǵ. V́ ích lợi các linh hồn, cha vui vẻ chu toàn các công tác không
một lời ca thán. Giữa đêm khuya, nếu có ai gọi đi giúp bệnh nhân, sẽ thấy cha
nhanh nhẹn thế nào.
Trong một giai đoạn lịch sử khó khăn, việc đào tạo phải thực hiện cách lén lút
và riêng tư từng người một, th́ con số bốn mươi chủng sinh, tám linh mục quả là
một con số đáng kể đối với hai mươi hai năm linh mục của cha, quả là bó lúa chín
vàng nặng trĩu hạt mà cha đóng góp được cho Giáo Hội Việt Nam.
Năm 1841, vua Minh Mạng băng hà, t́nh h́nh Giáo Hội có vẻ tự do hơn, cha Khanh
càng an tâm và hăng say với sứ vụ tông đồ hơn trước. Nào ngờ cuối tháng 1.1842,
khi tháp tùng cha Masson, phụ tá giám quản đi công tác ở Hà Tĩnh, cha bị quân
lính chận lại khám xét và bắt giam.
Không Chỉ là Thầy Lang
Mới vào tù được ít bữa, cha đă được mọi người kể cả lính canh ngục quư mến v́
tính vui vẻ và ḥa nhă. Uy tín của cha gia tăng nhờ tài năng y sĩ, nhất là sau
một lần chữa bệnh nổi tiếng. Viên cai ngục ở Hà Tĩnh có một cô t́nh nhân đang
mang thai lại mắc bệnh, cô đă chạy nhiều thầy thuốc vẫn chưa khỏi. Nghe lời đồn
đăi, ông Cai đến nhờ cha Khanh chữa trị, và đích thân đưa cha đến pḥng bệnh
nhân.
Sau khi chẩn bệnh, cha kê cho ông một toa thuốc nam gồm năm loại dược thảo để
sắc lên cho bệnh nhân uống. Sáng hôm sau, một gia nhân của ông Cai đến lạy cha
ba lạy để báo tin bệnh đă thuyên giảm. Cha hỏi lại bệnh đă giảm thật chưa, rồi
cho thuốc một ngày nữa, đến ngày thứ ba bệnh khỏi hẳn. Từ đó khắp miền Hà Tĩnh
đều biết tiếng và ca tụng người tù nhân là thầy thuốc “mát tay”. Nhưng điều cha
vui mừng thực sự không phải v́ tiếng đồn cho bằng việc có nhiều người đến xin
học đạo, trong đó có song thân của quan án. Ngay cả cô gái đă được cha chữa trị,
sau khi sanh con trai, cũng đến xin cha rửa tội cho ḿnh và con.
V́ mến phục vị chứng nhân đức tin, các quan tỉnh t́m cách cứu cha khỏi chết. Các
ông đề nghị cha giấu chức vụ linh mục, trước sau cứ khai nghề thầy lang, th́ họ
sẽ t́m cách xin ân xá. Nhưng cha Khanh không chấp nhận đề nghị phải nói dối ấy.
Thế là bản án của cha được gởi về Huế để vua Thiệu Trị kư duyệt. Ngày 11.7.1842,
bản án được gởi lại Hà Tĩnh kết án cha là “một kẻ điên rồ”, mù quáng và dốt nát
đáng chém đầu.
Ngay sáng hôm sau, bản án được thi hành, chấm dứt năm tháng rưỡi ngục tù và sáu
mươi hai năm sống trên dương thế của vị chứng nhân đức tin. Thi thể vị tử đạo
được đưa về Kẻ G̣n, cha Masson cử hành tang lễ cách trọng thể với sự tham dự
đông đảo của các tín hữu.
Ngày 2.5.1909, Đức Giáo Hoàng Piô X suy tôn cha Phêrô Khanh lên bậc Chân Phước.