Ngày 19 Tháng 12
Các Thánh MẬU, ÚY, MỚI, ĐỆ, và VINH
Chứng Tá Tập Thể Trong Lao Tù
Đọc truyện các Thánh Tử đạo Việt Nam, không ai có thể quên được một chứng tá
tập thể của hai thầy giảng, ba giáo dân ở trong tù. Năm vị cùng bị giam chung
với cha Tự và ông trùm Cảnh, nhưng hai vị này tử đạo trước (5.9.1838). Dù sống
trong ngược đăi, dù bị kiểm soát gắt gao, năm vị đă gắn bó với nhau trong t́nh
anh em tha thiết, cùng sống đức tin kiên vững và nỗ lực làm chứng cho Thiên Chúa
bằng lời nói, gương sáng và bằng chính mạng sống ḿnh.
Thánh Phanxicô Xavie HÀ TRỌNG MẬU
Thầy giảng ḍng ba Đaminh
(1790 - 1839)
Thầy giảng Phanxicô Xavie Mậu không những phải chọn lựa giữa cái chết và cuộc
sống, thầy c̣n phải chọn lựa giữa cái chết và việc làm quan triều đ́nh. Không
một chút lưỡng lự, thầy trả lời vị tổng đốc: “Tôi không ham quyền, tôi chỉ muốn
chết v́ đạo”.
Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu cất tiếng chào đời năm 1790 tại làng Kẻ Diền, tỉnh
Thái B́nh. Cậu được cha mẹ cho đi tu, trở thành thầy giảng và đi giúp nhiều
giáo xứ. Khi cha Phêrô Tự bị bắt, thầy Mậu đang coi họ Nội, thuộc xứ Kẻ Mốt.
Được tin cha và thầy Úy bị đưa về Lương Tài, thầy liền đến đó nghe ngóng tin
tức. Giáo hữu gửi thầy trọ ở nhà một lương dân phía bên kia sông, v́ nghĩ rằng
lính sẽ không khám xét đến. Ai ngờ, chính người chủ nhà đi báo cho quan kiếm
tiền thưởng, thế là thầy bị bắt.
Thầy bị dẫn đến dinh quan Lương Tài. Có mặt cha Tự
ở đó. Quan hỏi thầy là ai,
thầy đáp: “Thưa quan, tôi là một môn đệ thân tín của cha đây”. Cha Tự ra dấu
nhắc thầy đừng khai rơ, may ra có thể chuộc về được chăng, nhưng thầy nói nhỏ
với cha: “Xin cha thương nhận con là môn sinh, để con cũng được tử đạo với
cha”.
Kể từ ngày cha Tự và ông trùm Cảnh bị đem đi xử trảm, thầy Mậu trở thành cột
trụ nâng đỡ bốn người c̣n sót lại, là thầy Úy, các anh Mới, Vinh và Đệ. Thầy
nhắc anh em sống huynh đệ, an ủi giúp đỡ nhau. Thầy đại diện anh em viết thơ ra
ngoài, hoặc trả lời với các quan. Đặc biệt thầy động viên anh em hăng hái làm
việc tông đồ ngay trong nhà tù. Trong hồ sơ phong thánh, cha Huấn đă dựa vào các
thơ của thầy làm chứng rằng: “Thầy Mậu vẫn dạy giáo lư cho các tù nhân, và rửa
tội được bốn mươi bốn người. Trong đó có một tử tội tên Hưng mới học đạo một
tháng th́ đến ngày xử, anh xin quan hoăn lại ít giờ để rửa tội, sau đó vui vẻ
tiến ra pháp trường...”.
Khi quan nói: “Kẻ nào chết v́ không chịu bước qua thập giá là ngu dại, không
biết thương cha mẹ già”. Thầy giải thích: “Thưa quan, cha mẹ sinh chúng tôi,
nhưng ngay cha mẹ chúng tôi có ở trên đời, cũng là nhờ quyền năng của Chúa”.
Khi quan tuyên đọc bản án xử tử, thầy b́nh tĩnh đáp lại: “Thưa quan, chúng
tôi mong ước về với Chúa, như nai mong t́m thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành
án lệnh của Đức vua”.
Thánh Đaminh BÙI VĂN ÚY
Thầy giảng ḍng ba Đaminh
(1812 1839)
“Nếu tôi cả gan bước lên thánh giá, th́ tôi xúc phạm đến Chúa và bất hiếu với
cha mẹ. V́ song thân sinh ra tôi, đă dạy tôi trung thành với niềm tin cho đến
chết”.
Thầy Đaminh Úy đă đặt trọn niềm tin của ḿnh trong truyền thống tiên tổ. Không
biết cha mẹ căn dặn thầy trung kiên dù phải tử đạo vào lúc nào, khi mới có
bách hại hay khi vào thăm trong tù? Nhưng rơ rệt là với thầy, phản bội đức tin
là phản lại những người đă nhọc công vun trồng niềm tin cho ḿnh.
Đaminh Bùi văn Úy sinh năm 1812 tại họ Tiền Môn, làng Kẻ Rèm, tỉnh Thái B́nh.
Từ bé cậu đă được gia đ́nh gửi vào nhà xứ sống với cha Tự. Sau khi học thành
thầy giảng thầy luôn hoạt động bên cha tại giáo xứ Kẻ Đanh rồi Kẻ Mốt (Bắc
Ninh), th́ bị bắt, lúc đó thầy mới 26 tuổi. Bất cứ ai gặp thầy Úy đều công nhận
thầy hiền lành, có ḷng yêu mến Chúa đặc biệt và là người trợ thủ đắc lực của
cha Tự trong công tác, nhất là khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ. Ước
mơ lớn nhất của thầy là được đóng vai “Lê Lai thế mạng” để cha Tự khỏi bị bắt.
Khi đào hang trú ẩn, thầy làm hai ngăn rồi t́nh nguyện
ở ngăn bên ngoài. Thầy
nói với mọi người:
“Nếu các quan đến truy lùng, tôi sẽ ra trước nộp ḿnh để cha khỏi bị bắt, hầu
cha có thể giúp anh chị em”.
Ngày 29.6.1838, lính đến vây làng Kẻ Mốt, đă bắt thầy Úy chung với cha Tự. Cha
dự định khai thầy chỉ là giáo hữu vào làm bếp để đỡ nguy hiểm, nhưng thầy nói:
“Xin cha cứ nói con là thầy giảng, may ra cùng được phúc tử đạo với cha”
Rồi thầy xin xưng tội để chuẩn bị tâm hồn. Một lần tương kế tựu kế, quan nói dối
thầy: “Cha Tự xuất giáo rồi, sao anh c̣n cố chấp thế?”. Thầy b́nh tĩnh trả lời:
“Vô lư, cha tôi không bao giờ làm vậy, mà dù có thực như thế, tôi cũng không
chịu xuất giáo đâu”.
Lần khác, quan như muốn dạy khôn thầy: “Anh c̣n trẻ, hăy nghĩ lại và khôn hơn
một chút, ta chỉ yêu cầu anh bước qua một khúc gỗ mà”. Thầy Úy đáp: “Đúng là
khúc gỗ, thưa quan, nhưng khúc gỗ đó lại tượng trưng cho Chúa tôi thờ. Quan nghĩ
sao nếu tôi giày đạp lên ảnh vẽ h́nh cha mẹ tôi?”. Hôm khác, khi bị dụ dỗ bước
qua thánh giá, thầy khẳng khái nói:
“Thưa quan, quan có dám bước qua mặt đức vua không, mà lại bảo tôi bước qua mặt
Chúa tôi? Nhưng dù quan có bước qua mặt vua, th́ tôi cũng không bước qua mặt
Chúa tôi được”.
Quan nghiêm nghị phán: “Tên phạm thượng, ta sẽ chém đầu mi”. Người chiến sĩ đức
tin vui vẻ reo lên:
“Anh em ơi, tôi sắp được chém rồi”.
Nhưng phúc trường sinh đến với thầy không quá sớm như vậy.
Thánh Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI
Nông dân ḍng ba Đaminh
(1806 - 1839)
Tuy là một tân ṭng mới theo đạo, anh Augustinô Mới đă biểu lộ một đức tin kiên
cường, không thua kém ǵ những Kitô hữu vững tin nhất.
Augustinô Nguyễn văn Mới sinh năm 1806 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái B́nh, trong
một gia đ́nh nông dân ngoại giáo. Đến tuổi trưởng thành, anh đến làng Đức Trai,
xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) để làm thuê làm mướn. Tiếp xúc với giáo hữu
ở đây, càng
ngày càng thấy mến đạo, và xin theo học giáo lư. Năm 31 tuổi, anh được cha Tự
rủa tội và đặt tên thánh bổn mạng là Augustinô.
Mấy năm sau, cha Tự cũng chủ sự lễ thành hôn cho anh với một thiếu nữ trong xứ.
Theo các lời chứng trong hồ sơ phong thánh, anh Augustinô Mới sống đạo rất tốt,
đặc biệt là đọc kinh Mân Côi mỗi tối. Dù có ngày lao động vất vả đến măi khuya
mới về, anh cũng không quên kinh Mân Côi kính Đức Mẹ.
Ngày 29.6.1838, khi quân lính bao vây làng Kẻ Mốt và bắt cha Tự, họ buộc toàn
dân phải ra đ́nh điểm danh, rồi bước qua thánh giá. Một số tín hữu nhanh chân
lẩn tránh được, một số nhát gan thực hiện lời yêu cầu của lính. Các anh Mới,
Vinh và Đệ cương quyết không chịu đạp lên thánh giá, nên bị bắt và áp giải
chung với cha Tự, ông trùm Cảnh và hai thầy Úy và Mậu lên giam tại Bắc Ninh.
Thánh Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ
Thợ may ḍng ba Đaminh
(1811 - 1839)
Hai mươi tám tuổi đời, một người vợ ba người con, đó là mối ưu tư trắc trở của
anh Tôma Đệ trong những ngày bị giam cầm. Không thể bỏ đức tin, nhưng tương lai
của người vợ trẻ và đàn con dại sẽ ra sao?. Trong nhiều ngày anh suy nghĩ và
tha thiết cầu nguyện xin Chúa soi sáng. Cuối cùng anh t́m được an b́nh trong tâm
hồn, phó thác tất cả trong bàn tay Chúa quan pḥng. Anh nói với người vợ đến
thăm:
“Đừng khóc ḿnh ạ, ḿnh về dạy dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phượng Chúa.
Tôi đă dâng ḿnh và các con cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho tôi thêm sức mạnh để
nhẫn nại đến cùng”.
Ra đời trong một gia đ́nh Công giáo tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái B́nh năm 1811,
Tôma Nguyễn văn Đệ v́ lư do sinh kế, theo cha mẹ về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) và
ở
ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh theo nghề thợ may và được mọi người yêu chuộng.
Anh rất nhiệt t́nh với việc trong xứ trong họ. Hầu hết cờ quạt, đồ trang hoàng
trong nhà thờ và nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo léo và sáng tạo của anh. Khi
kinh tế gia đ́nh ổn định, anh lập gia đ́nh, ra
ở riêng và sinh hạ được ba người
con.
Ngày 29.6.1838, quân lính vây làng Kẻ Mốt, và ép buộc mọi người trên 18 tuổi
phải đạp lên thánh giá, anh lẩn trốn ra phía sau nhà. Đến khi quân lính xồng
xộc vào nhà lùng bắt, anh biết ḿnh không thể tránh được nữa, liền giă từ vợ,
dặn đưa con về bên ngoại, ôm hôn từng đứa rồi ra tŕnh diện. Đến trước thánh
giá, anh Đệ quỳ xuống cầu nguyện lớn rằng: “Lạy Chúa, sẽ không bao giờ con bước
qua mặt ngài”.
Quân lính áp giải anh Tôma Đệ cùng với cha Tự ông trùm Cảnh, hai thầy Úy, Mậu
và các anh Mới và Vinh về giam tại Bắc Ninh.
Thánh Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH
Tá điền ḍng ba Đaminh
(1813 - 1839)
Thánh Stêphanô Vinh là một trường hợp hy hữu, trong danh mục các thánh tử đạo
Việt Nam. Khi bị bắt, anh mới chỉ là dự ṭng chưa được rửa tội. Nhưng với những
hiểu biết ít ỏi về đạo, anh đă kiên tŕ làm chứng cho chân lư. Mặc dù khi vô tù
anh mới chính thức gia nhập đạo, rồi thành hội viên ḍng ba Đaminh, nhưng anh
không thua kém ai về ḷng can đảm tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.
Stêphanô Nguyễn văn Vinh sinh năm 1813 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái B́nh. Sống
trong một gia đ́nh ngoại giáo rất nghèo, một miếng đất cũng không có, anh Vinh
quanh năm phải làm thuê làm mướn cho các gia đ́nh Kẻ Mốt (Bắc Ninh). Trường
học duy nhất anh ham thích và theo được là các lớp giáo lư, nơi anh tập đánh vần
và học truyền khẩu. Đặc biệt anh đem các điều học
ở đó ra thực hành trong cuộc
sống. Có điều là người ta không biết v́ sao anh chưa được rửa tội. Mọi người
đều mến thương anh v́ anh đơn sơ, chất phác, khỏe mạnh và thật thà. Trong công
việc anh không bao giờ làm cho qua loa chiếu lệ, ai thuê việc ǵ, anh cũng chu
toàn tốt đẹp không cần kiểm soát, không có ǵ để chê trách. Cho đến khi bị bắt
(lúc 26 tuổi) anh vẫn sống độc thân chưa lập gia đ́nh.
Ngày 29.6.1838, khi quan quân vây bắt cha Tự ở Kẻ Mốt, và bắt mọi người phải
đạp qua thánh giá, chàng thanh niên 25 tuổi này đă anh dũng nói thẳng với họ
rằng: “Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên thánh giá, v́ tôi biết đạo
Chúa Giêsu là đạo thật”.
V́ lời nói này, quan quân tưởng anh là người trong đạo, thế là họ bắt anh Vinh
và áp giải về trại giam Bắc Ninh chung với cha Tự, ông trùm Cảnh, thầy Úy,
thầy Mậu, anh Mới và anh Đệ. Chính tại đây, anh Vinh được diễm phúc làm người
Kitô hữu, được hân hạnh làm con Cha Thánh Đaminh. Suốt hành tŕnh tử đạo, anh
là một nhân chứng trầm lặng, chỉ đồng t́nh với các vị khác, nhưng gông cùm,
xiềng xích và tra tấn không lần nào có thể làm anh sa ngă hay thối chí. Chọn
quan thầy Stêphanô trong tù, anh cương quyết noi theo vị tử đạo tiên khởi của
Giáo hội đến hơi thở cuối cùng.
*
* *
Lời An ủi Ấm Ḷng
Sau một tháng dọa nạt tra khảo bảy chiến sĩ đức tin nhưng vô hiệu, ngày
27.7.1838, quan tỉnh Bắc Ninh đệ án vào triều xin xử giáo cha Tự và ông trùm
Cảnh, c̣n năm vị kia quan cho là nhẹ dạ tin theo, nên xin đánh mỗi người một
trăm roi rồi phát lưu vào B́nh Định. Luật vua thời đó xử giảo các phù thủy,
đồng cốt, c̣n những kẻ a dua chỉ bị đánh đ̣n và phát lưu ba trăm dặm. Thế nhưng
vua Minh Mạng cho rằng tội theo đạo Gia-tô thuộc loại nặng hơn, nên quyết định
xử chém hai vị trên ngay tức khắc, c̣n tất cả sẽ bị xử giảo sau một năm nếu
không chịu thay đổi ư kiến.
Ngày 5.9.1838, khi biết tin cha Phêrô Tự và ông trùm Cảnh đă bị chém tại pháp
trường Kinh Bắc, năm vị trong ngục buồn bă nhớ thương. Thầy Mậu kêu gọi anh em
ngồi lại bên nhau cùng đọc kinh, vừa khích lệ nhau, vừa ôn lại những lời khuyên
của cha ḿnh. Sau đó ba buổi tối, như chính các vị thuật lại, trong lúc họ đang
cầu nguyện, th́ bất ngờ tất cả đều thấy như cha Tự hiện ra ngay bên an
ủi họ:
“Các con đừng buồn, chắc chắn các con sẽ được chết v́ đạo. Tuy nhiên, các con sẽ
c̣n phải qua một thời gian thử thách nữa, để xứng đáng với phúc trọng này”. Có
thể đó chỉ là giấc mơ chứ không phải sự thật, cũng có thể đó là lời nhắn nhủ
cuối cùng của vị linh mục, nhưng kể từ ngày đó họ hết sầu buồn, t́m lại đuợc
can đảm để nêu gương ngay trong cảnh quẫn bách ở trong trại giam.
Tuyên Khấn Trong Ngục Tù
Ấn tượng ghi nét sâu đậm vào ḷng năm vị chứng nhân là lời cha Tự trong ngày
lănh phúc tử đạo. Cha mặc áo ḍng và nói với mọi người về chiếc áo đó. Trước
đây bốn vị, đến khi vào tù có thêm anh Vinh, đă mặc áo ḍng ba Thánh Đaminh,
nhưng chưa ai khấn cả. Thầy Mậu liền viết thơ cho cha Huấn ḍng Đaminh để bày
tỏ niềm ước nguyện được hiệp thông với ḍng cách trọn vẹn. Thầy viết:
“Chúng con tất cả là năm tập sinh của ḍng ba Đaminh, nhưng chúng con không
thể giữ chay đủ các ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy được, nên chúng
con xin cha thương rộng phép chuẩn chước cho sự thiếu sót đó. Qua thơ này, chúng
con xin tuyên khấn trọn đời. V́ chúng con không thể đọc lời tuyên khấn trong tay
cha được, nên bằng những ḍng viết này chúng con coi như thực sự tuyên khấn
trước mặt cha vậy, xin cha cho phép”.
Để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa toàn năng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, chúng con là Phanxicô, Đaminh, Augustinô, Tôma và Stêphanô, trước mặt cha
Huấn, đại diện cha Hermosilla, giám đốc ḍng ba hăm ḿnh Thánh Đaminh chúng con
xin hứa và ước ao giữ lề luật và tập tục của ḍng cho đến chết”.
Những chữ “cho đến chết” trong ngục tù khi đó chắc hẳn phải có âm vang đặc biệt
đối với các vị. Được nối kết với truyền thống hơn sáu trăm năm truyền giáo của
Thánh Phụ và một ḍng tu lớn trong Giáo hội, từ nay năm anh em tích cực hơn với
việc tông đồ. Dưới sự điều hành của thầy Mậu, năm hội viên ḍng ba chia nhau
tiếp xúc gặp gỡ các bạn tù, giới thiệu với họ về Thiên Chúa, cắt nghĩa giáo lư,
rồi dẫn họ đến thầy Mậu lănh nhận bí tích rửa tội. Ít ra các vị đă rửa tội
được bốn mươi bốn người. Ngục tù giờ đây trở thành nguyện đường, hằng ngày vang
lên những lời chúc tụng Thiên Chúa, lời cầu nguyện cho Giáo hội và cho mọi người
mọi giới được đầy tràn ơn lành của Ngài.
Làm Chứng Trước Quan Quyền
Thấm thoát hơn một năm đă trôi quan, triều đ́nh quyết định lại việc xử giảo
cả năm người. Ngày 19.8.1839 quan cho điệu tất cả ra ṭa, vẫn để thánh giá một
bên, bên kia là dụng cụ tra tấn. Quan nói: “Các anh bị giam cầm đă lâu ngày,
chịu khổ cũng đă nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta tha về với vợ con”. Thầy Mậu đại diện
anh em trả lời:
“Chúng tôi đă quyết tâm trung thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu hay giết
cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng”.
Rồi cả năm vị quỳ xuống bái lạy thánh giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cứu
chúng con, con xin phó thác hồn con trong tay Chúa”.
Thất vọng quan cho lính đưa tất cả về ngục và thốt lên: “Bọn này không thể tha
thứ được, mà chúng có thèm được tha đâu”.
Ngày 24.11, năm vị phải ra ṭa một lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và
các tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết không chối đạo. Thầy Mậu thay mặt anh em
nói với quan:
“Chúng tôi chỉ tôn thờ một Thiên Chúa là Cha chung muôn loài, là Vua trên hết
các vua, là Đấng chúng tôi mong được đổ máu ra để chứng tỏ ḷng trung thành và
yêu mến”.
Như Nai Rừng Mong Mỏi T́m Về Suối Nước Trong
Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ hội cuối cùng. Ông
nói: “Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng tha”. Sau ông lại nói: “Chỉ
cần đi ṿng quanh tượng ta cũng tha”. Nhưng các vị chứng nhân đức tin không dễ
bị mắc lừa, họ bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu. Có lẽ do
ảnh
hưởng những lời kinh Giáo hội trong mùa Vọng, đón chờ Chúa giáng sinh, thầy Mậu
nói với quan những lời kinh Thánh vịnh 41 (c 1-2):
“Thưa quan, chúng tôi ước mong về Chúa như nai mong t́m thấy suối vậy. Xin quan
cứ thi hành án lệnh của nhà vua”.
Biết không thể làm nao núng ư chí sắt đá của những con người này được nữa, quan
liền truyền đem đi xử với bản án như sau:
“Bọn gian ác theo Gia-tô tả đạo, mặc dầu đă khuyên răn sửa phạt, vẫn ngoan cố
không chịu bước qua thập giá, nay chúng bị xử giảo”
Trên đường ra pháp trường, thầy Mậu rảo chân bước đi trước, các anh khác bước
theo sau, tất cả đều tỏ ra hân hoan kiên cường. Dân chúng hiếu kỳ đi xem rất
đông và x́ xào với nhau là các vị này bị giết oan. Theo gương thầy Mậu, các
chứng nhân tươi cười với mọi người:
“Anh em chúng tôi đang tiến về thiên đàng đây”.
Khi tới nơi xử, mỗi vị bị trói vào một cọc đă chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lư
h́nh xiết cổ các vị bằng giây thừng cho đến lúc tắt thở. Các tín hữu đem thi
thể các vị về an táng ở họ đạo ḿnh. Thánh Mậu
ở Kẻ La, Thánh Úy ở Đồng
Tiến, Thánh Mới ở Phượng Vĩ, Thánh Đệ ở Phong Cốc và Thánh Vinh
ở Hương La,
tất cả đều thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đă suy tôn năm vị anh hùng tử đạo:
Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu, Đaminh Bùi văn Úy, Augustinô Nguyễn văn Mới, Tôma
Nguyễn văn Đệ và Stêphanô Nguyễn văn Vinh lên bậc Chân Phước.