Ngày 20 Tháng 11
Thánh Phanxicô NGUYỄN CẦN
Thầy giảng
(1803 - 1837)
Tôi Trung Không Thờ Hai Chủ
“Tôi trung không thờ hai chủ”.
Lời cuối cùng phát ra từ miệng Thánh Phanxicô Nguyễn Cần tóm tắt cuộc đời của
thầy, một người tôi trung, đă suốt đời trung thành với Chúa, phục vụ tha nhân,
sống trung thực với suy nghĩ của ḿnh, trung tín với giáo lư Tin mừng và cuối
cùng đă trung kiên vượt qua mọi thử thách, xứng đáng nhận lời chúc phúc “Hăy vào
hưởng niềm hoan lạc của Chúa trên trời” (Mt 25:21).
Chí Con Đă Quyết
Phanxicô Nguyễn Cần c̣n có tên Nguyễn Tiến tức Tiên Truật, sinh năm 1803, tại xă
Sơn Miêng, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, Hà Nội. Từ niên thiếu
cậu Cần đă ước ao dâng ḿnh trong nhà Chúa, nhưng mẹ cậu v́ thương nhớ không
muốn xa con nên từ chối. Cậu phải nài với mẹ “Nếu Mẹ không bằng ḷng con ở với
cha xứ nhà, con sẽ trốn đi ở với cha xứ khác”. Thế là bà mẹ cũng phải chiều ư
cho cậu ở với cha Nghi chánh xứ Sơn Miêng.
Nhờ đức hạnh tốt và siêng năng, cậu được vào chủng viện, trở thành thầy giảng,
được cử đi giúp Đức cha Havard Du, rồi cha Retord Liêu (năm 1838 lên chức Giám
mục gọi là Đức thầy Liêu). Cha Liêu đă nhận xét về thầy Cần: “Thầy giúp tôi học
tiếng Việt, chia sẻ với tôi mọi khó khăn hiểm nguy, thiếu thốn. Thầy rất nhiệt
tâm trong việc tông đồ”.
Ngày 19.4.1836, cha Liêu nhờ thầy đi mời cha Tuấn về xứ Kẻ Chuông giảng, chuẩn
bị lễ Phục Sinh. Nhưng khi thầy đến xứ Kẻ Vạc, nơi cha Tuân ở th́ bị bắt. Quân
lính giấu ảnh tượng vào túi xách của thầy để có chứng cớ cụ thể. Thầy bị giải về
huyện Thanh Oai và bị tống giam vào ngục.
Trước công đường, quan hỏi thầy đừng tin vào các đạo trưởng, và hăy đạp lên ảnh
đạo, quan sẽ tha cho về nuôi mẹ già. Thầy trả lời: “Thưa quan, tôi chưa thấy các
đạo trưởng lừa dối ai bao giờ, c̣n mẹ già tôi không lo, tôi xa nhà đă lâu chẳng
giúp ǵ cho bà”. Sau đó quan dùng nhiều lời khiếm nhă phê b́nh về đạo, thầy b́nh
tĩnh giải thích lại rồi tŕnh bày về Mười Điều răn Thiên Chúa và sáu Điều răn
Hội Thánh, thầy kết thúc bằng một lời nguyện tự phát rất cảm động. Mọi người ở
đó đều cảm phục. Quan nói nhỏ với người đứng bên: “Anh này nói cũng có lư. Những
giới răn và kinh nguyện của anh ta chứa đựng nhiều điều tốt lành, có lẽ c̣n dễ
hiểu hơn bản “thập điều” của nhà vua nữa”.
Một Dạ Sắt Son
Phần cha Liêu ở nhà rất buồn, cha t́m mọi cách cứu mạng cho thầy Cần. Cha cho
người đem tiền theo thân mẫu thầy lên huyện để chuộc. Mới đầu quan đ̣i ba trăm
quan, sau tăng lên năm trăm, rồi sáu trăm, vượt quá con số dự trù, có lẽ vị quan
đó không dám cho chuộc th́ đúng hơn. Thầy Cần an ủi mẹ: “Xin mẹ đừng lo cho con,
con đă ước ao tử đạo từ lâu, xin mẹ chỉ cầu nguyện cho con là đủ”.
Có nhiều người tỏ ḷng thương hại thầy Cần. Quan khuyên thầy bước qua thập giá,
thầy cương quyết từ chối. Lính khiêng thầy đặt lên tượng ảnh Chúa, thầy ôm chặt
lấy chân và la lên: “Tôi không đạp lên ảnh Chúa đâu”. Một số giáo dân bỏ đạo
nói: “Tội nào Chúa chẳng tha, Phêrô chối Chúa ba lần mà c̣n làm thủ lănh Giáo
hội”. Người khác lừa dối: Cha Liêu nhắn thầy cứ bước qua thánh giá, rồi sẽ về
liệu sau. Họ c̣n đe dọa: “Nếu thầy không nghe, quan sẽ làm khổ cả làng đó”.
Nhưng tất cả không làm xoay chuyển ư chí sắt đá của vị chứng nhân Đức Kitô. Thầy
quả quyết:
“Dù thiên thần xuống bảo tôi bỏ đạo, tôi cũng chẳng tin. Dù kính trọng cha Liêu,
tôi không thể làm điều sai lạc đó được. Hơn nữa, tôi biết chắc ngài không ra
lệnh tôi như vậy. C̣n với dân chúng, tôi thương mến thật, những cũng không v́ họ
mà xúc phạm đến Chúa”.
Nhiều người ngoại giáo nói với nhau: “Giá như đạo ḿnh bị cấm, chắc ta đă bước
qua ảnh tượng trăm lần... Tượng đồng ảnh giấy có chi mà sợ”. Thấy không thể lay
chuyển được người tôi trung của Chúa Kitô, quan cho giải thầy Cần lên Hà Nội.
Tám tháng tù ở Thanh Oai, mười tháng tù ở Hà Nội, là cả chuỗi ngày cực h́nh đổ
trên người thầy: cổ mang gông, tay mang xiềng xích, chân bị cùm... nhà tù thi
nồng nặc mùi hôi hám, v́ tù nhân pḥng uế tại chỗ, lính canh th́ đánh đập thầy
mỗi ngày để tra khảo tiền bạc. Trong một lá thơ gởi cha Liêu, thầy viết:
“Con bị tra tấn ba lần, hai lần đầu, mỗi lần sáu mươi roi, lần sau năm mươi roi,
nhà giam đă chật hẹp hôi hám, lại có hơn chục anh đầu trộm đuôi cướp, ăn nói lỗ
măng, ban ngày say sưa, ban đêm cờ bạc, lúc nào cũng ồn ào làm con khó cầu
nguyện quá”.
Tông Đồ Trại Giam
Thế nhưng thầy không chán nản, mà coi đó là môi trường Chúa gửi đến. Thầy kiên
nhẫn giúp được hai tù nhân hối cải, dạy giáo lư và rửa tội được vài người, chúng
ta hăy đọc một đoạn thư thầy viết từ trại giam ở Hà Nội:
“Con xin báo để cha an tâm. ở đâu con cũng được mọi người thương mến, dù quan
hay dân và các bạn tù đều kính trọng gọi con bằng Thầy, có người c̣n tặng con
danh hiệu khác nữa. Hầu hết họ cảm thương con bị đau khổ, hoặc khen con vững
chí. Con hay bàn luận với họ và biết nhiều điều mê tín của họ, nhưng chưa biết
khuyên bảo họ sao bây giờ. Có một ông chánh tổng cũng bị giam ở đây, hứa với con
khi ra tù sẽ theo đạo và sống theo những điều con giảng... Thưa cha con thấy
người đời sẵn sàng chịu nhiều khổ sở để được giàu sang hoặc danh vọng chóng qua,
lẽ nào con không nhẫn nại, chịu những sự khó mau qua này để được vinh quang đời
đời”.
Một Lời Tiên Đoán
Viên cai ngục Hà Nội thấy tác phong của thầy Cần, dự đoán: “Ông này chỉ bằng nắm
tay mà nghị lực phi thường. Ông ta mà chết chắc sẽ trở nên thành hoàng của làng
chứ chẳng chơi”. Cũng trong thời kỳ ở Hà Nội, có lần thầy Cần bị bệnh nặng, một
linh mục giả làm thầy lang vào giải tội, cho thầy rước lễ và xức dầu. Nhưng sau
đó thầy được b́nh phục ngay.
Ngày 20.11.1837, bản án vua Minh Mạng châu phê ra tới Hà Nội. Quan tổng trấn
khuyên thầy nhắm mắt bước đại qua thập giá. Thầy nói: “Mắt th́ nhắm được, chứ
ḷng và trí khôn không thể nhắm được nên tôi chẳng làm”. Quan lại cho xếp chéo
hai khúc gỗ và nói: “Đây không phải ảnh Chúa, gỗ này cũng chưa được làm phép, cứ
bước qua đi sẽ thoát chết”. Nhưng thầy không làm v́ biết đó là dấu hiệu chối
đạo.
Và Thiên Thu Vĩnh Phúc
Một tuần sau, thầy Phanxicô Cần bị điệu ra pháp trường Cửa Ô Cầu Giấy. Năm viên
quan cỡi voi đi trước, mười cai đội cỡi ngựa theo sau, rồi đến ba trăm lính vũ
lâm mặc binh phục đỏ, tay cầm kiếm. Một người cầm tấm thẻ ghi bản án: “Can phạm
theo đạo Gia-tô, không chịu bước qua thập giá, án xử giảo”. Dân chúng hôm đó đi
xem rất đông.
Tại pháp trường, khi giây thừng đă cuốn ṿng quanh cổ, thầy Cần vẫn b́nh tĩnh
cảm ơn mọi người, nói với họ về cái chết theo đức tin Công giáo, về hạnh phúc
đời sau và hứa sẽ nhớ đến họ khi về bên Chúa. Viên quan cố thuyết phục lần chót:
“Anh có thể cứu mạng ḿnh. Anh không trộm cướp, cũng không làm loạn, bản án của
anh c̣n có thể rút lại được, chỉ cần anh bước một bước qua thập tự”. Nhưng thầy
trả lời: “Tôi trung không thờ hai chủ, xin quan cứ án mà thi hành”. Quan ra
lệnh, tức khắc quân lính kéo mạnh hai đầu giây, người môn đệ Chúa Kitô gục đầu
tắt thở, lănh cành vạn tuế tử đạo ngày 20.11.1837, khi mới 34 tuổi.
Thi hài vị tử đạo được an táng tại Chân Sơn, sau cải táng về nhà thờ xứ Sơn
Miệng.
Lời tiên đoán vô t́nh của viên cai ngục đă trở thành hiện thực. Ngày nay Thánh
Phanxicô Nguyễn Cần không những là thành hoàng của làng Sơn Miệng, mà hơn thế,
là thánh tử đạo của Giáo hội Việt Nam và được cả Giáo hội hoàn cầu ngưỡng mộ.
Đức Lêo XIII suy tôn thầy Nguyễn Cần lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.
ĐTC GPII phong hiển thánh ngày 19/6/1988.
Hiếu Trung, OP