Ngày 28 tháng 4
Thánh Phaolô PHẠM KHẮC KHOAN
Linh mục
(1771 - 1840)
Thánh Phêrô NGUYỄN VĂN HIẾU
Thầy giảng
(1777 - 1840)
Thánh Goan Baotixita ĐINH VĂN THÀNH
Thầy giảng
(1796 - 1840)
Các Thánh KHOAN, HIẾU, THANH
Lời Ca Tạ Ơn
Tâu Thượng Đế,
Này thần dân xin hát mừng trước bệ
Tuyên xưng Ngài là Chúa tể càn khôn...
Suy tôn Chúa bậc tông đồ hợp xướng,
Tán tụng Ngài bao thế hệ tiên tri.
Đoàn tử đạo quang huy hùng dũng,
Máu đào đổ ra minh chứng về Ngài...
Đó lời kinh Te Deum, lời kinh Tạ Ơn mà cha Khoan và hai thầy Hiếu, Thanh đă hát
vang lên trong ngục, cũng như trên đường ra pháp trường. Đó là lời kinh đem lại
phấn khởi cho những ai được nghe. Đó là tiếng hát của Giáo Hội sơ khai, khi cuộc
bách hại 300 năm chấm dứt, nay lại vang lên trên môi miệng các vị Tử đạo Việt
Nam, vượt thấu chín tầng mây, chắp cánh cho các ngài bay về hợp đàn với muôn
thần thánh trên Thiên Quốc.
Định Mệnh Nối Kết Ba Con Người
Phaolô Phạm Khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Bồng Hải, tỉnh Ninh B́nh, thuộc
địa phận Tây Đàng Ngoài. Sau khi thụ phong linh mục, cha phụ trách xứ Kẻ Vinh,
rồi xứ Phúc Nhạc, nơi đông dân cư nhất trong tỉnh. Cha Khoan rất hăng say hoạt
động tông đồ, ngoài xứ chính ra, cha c̣n phụ trách thêm hai họ Đông Biên và Tôn
Đạo. Mỗi tháng Ngài đều đến họ lẻ dâng lễ, giải tội và khích lệ giáo hữu sống
đạo đức, gương mẫu hơn.
Mỗi lần đi như vậy, cha thường dẫn theo một vài thầy giảng để giúp dạy giáo lư
và tiếp xúc sâu sát hơn với quần chúng. Năm 1837, có hai thầy cùng đi với cha về
giúp họ Đông Biên là Thầy Phêrô Nguyễn văn Hiếu 60 tuổi, người làng Đồng Chuối,
và thầy Gioan Baotixita Đinh văn Thành, 41 tuổi, gốc Nộn Khê (Phát Diệm). Trên
đường trở về, cả ba cha con bị bắt và bị giải về Ninh B́nh, Khi đó cha Khoan đă
66 tuổi.
Trước Lời Đường Mật
V́ kính trọng cha tuổi cao lại có tướng người phúc hậu, một hôm quan Tổng trấn
mời ngài đến và nói: “Ta muốn kết thân với ông. Ta chỉ muốn t́m cách cứu mạng
ông thôi. Xin ông chịu khó chấp nhận bước qua thập giá”. Cha trả lời: “Mấy tháng
qua ở trong tù, tôi đă suy tính kỹ lắm rồi, nhưng càng nghĩ, tôi càng xác tín
hơn, càng cương quyết giữ vững đức tin cho đến chết”. Rồi cha kể lại chuyện xảy
ra năm 1802:
“Khi đó Thế Tổ Gia long, phụ thân của Hoàng đế ra Hà Nội, chúng tôi có đến ra
mắt. Người hứa cho chúng tôi được tự do giảng đạo, xây nhà thờ và các nhà bác
ái. Người yêu cầu chúng tôi cổ động dân chúng thuận ḥa và chăm chỉ làm ăn. Từ
đó đến nay, tôi vẫn vâng lệnh vua, nhắc nhở bà con làm đều tốt tránh điều xấu.
Tôi thờ Vua trên trời và tuân phục vua dưới đất, tôi vẫn xin Vua trên trời ban
ơn cho các quan, để thời các ngài được thái b́nh thịnh trị. Sao hôm nay quan lại
bảo tôi bỏ lệnh Tiên Đế mà tôi đă tuân hành biết bao năm nay?”.
Thế ông không muốn sống?
Thưa quan, mọi sinh vật đều muốn sống, huống chi là con người có suy nghĩ. Ai
biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham sống. Thế nhưng với người Kitô hữu, chết là
cách sống đời đời trên Thiên đàng.
Ai bảo ông là có Thiên đàng?
Đó là chuyện đương nhiên. Như nhà vua vẫn ban thưởng cho những trung thần, th́
Chúa trời đất chẳng lẽ không ban thưởng cho những tôi trung phục vụ Người đến
chết sao? Nơi tưởng thưởng đó, chúng tôi gọi là Thiên đàng.
Vậy ai dạy cho ông biết là có Chúa trời đất?
Thưa Tổng trấn, không cần phải ai dạy cả, chính trời đất vũ trụ là cuốn sách vở
mở ra dạy ta bài học đó. Nh́n ngắm những công tŕnh kỳ diệu của thiên nhiên, tức
khắc phải nhận ra có Đấng sáng tạo và ǵn giữ nó. Chúng tôi gọi Đấng Tạo Hóa đó
là Chúa Trời và tôn thờ Người.
V́ hy vọng thời gian sẽ làm các anh hùng đức tin nản chí, quan t́m cách tŕ hoăn
vụ án thật lâu. Thấm thoát ba vị đă ở tù được gần ba năm. Th́nh thoảng quan lại
gọi ra ṭa đề nghị bước qua thập giá. Mới đầu th́ khuyên dụ ngọt ngào, sau dùng
cực h́nh để cưỡng bách, nhưng không cách nào có thể làm các vị thay ḷng đổi dạ.
Thái độ hai thầy giảng cũng làm cho mọi người bỡ ngỡ thán phục. Dù bị hành hạ dă
man đến đâu, hai thầy cũng vẫn thản nhiên nhẫn nại, không bao giờ trách mắng
chửi rủa, chỉ lập đi lập lại một điều: “Dù sống dù chết, chúng tôi không bao giờ
bỏ đức tin". Niềm an ủi lớn nhất của hai thầy là được ở gần cha Khoan, sớm hôm
tâm sự và thỉnh thoảng lănh bí tích giải tội. Các thầy coi những ngày tù như
thời gian thanh luyện để lập công, đền bù những lỗi lầm từ thơ ấu. Đôi khi có
người khéo léo đưa được Ḿnh Thánh Chúa vào tù, đó là những ngày sung sướng và
hạnh phúc nhất của ba vị.
Một lần cha Khoan nói thẳng với quan án rằng: “Quan bảo tôi chà đạp thập giá là
điều chẳng hợp lư chút nào?”. Quan hỏi: “Sao lại không hợp lư, ta chỉ cho ông
con đường sống mà không hợp lư à?”. Cha nói: “Thưa quan, nếu nước nhà có biến,
mà quan sợ chết đào ngũ th́ quan là kẻ hèn nhát. Cũng vậy, tôi nhờ ơn Vua cả
trên trời, tôi đâu có quyền sợ mà bỏ Người được”.
Lời Chứng Cuối Cùng và Bài Ca Phục Sinh
Khi thấy hoàn toàn thất vọng trước sự kiên tâm quyết chí của ba người “lính”
Chúa Kitô, quan đành quyết định kư án tử gởi về triều đ́nh xin phép. Trong những
ngày chờ đợi cuối cùng đó, trại giam Ninh B́nh vang vọng những tiếng hát hân
hoan. Đó là tiếng cha Khoan và hai thầy giảng hát lên lời kinh Tạ Ơn. Cha một
câu, hai thầy một câu, nhịp nhàng rộn ră. Trên đường ra pháp trường, ba vị vẫn
không ngừng cất tiếng ca những lời tri ân đó.
Tại pháp trường ngày 28.4.1840, cha Khoan xin phép nói với dân chúng đôi lời:
“Thưa đồng bào và các bạn hữu, chúng tôi không phạm tội ác, không chống lại vua,
không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ v́ là Kitô hữu, và v́ không chịu bỏ đạo
Kitô, là đạo duy nhất chân thật”.
Lính đẩy ba vị vào khu vực riêng xa tầm mắt dân chúng. Ba vị giơ tay lên trời,
hai thầy hiệp ư cầu nguyện với vị linh mục:
“Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất. Chúng con hiến dâng
mạng sống cho Ngài. Xin Chúa chúc phúc cho nhà vua được cai trị lâu dài trong an
b́nh. Xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất có thể
đem lại cho con người hạnh phúc đích thực”.
Tiếp theo ba vị lại cầu nguyện bằng Thánh ca. Như trong đêm Phục sinh, cha Khoan
hát lên ba lần Alleluia, Allelulia, Alleluia, mỗi lần với cung giọng cao hơn.
Xen kẽ vào đó, hai thầy giảng cũng hát thay cho cộng đoàn theo cao độ của vị chủ
sự: Alleluia, Alleluia, Alleluia. Sau đó lư h́nh thi hành phận sự. Ba cái đầu
cùng rơi xuống, đưa ba vị thánh về hợp xướng với ca đoàn thiên thần trên Thiên
Quốc với khúc hát phục sinh Alleluia bất diệt. Năm đó cha Khoan 69 tuổi, thầy
Hiếu 63 tuổi, thầy Thành 44 tuổi. Thầy giảng Huấn chứng kiến từ đầu vụ hành
quyết đă lănh thi thể ba vị về Phúc Nhạc an táng theo nghi lễ Công giáo.
Đức Lêo XIII suy tôn cha Phaolô Phạm Khắc Khoan, hai thầy Phêrô Nguyễn văn Hiếu
và Gioan Baotixita Đinh văn Thành lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.
Tâm T́nh Đức Cha Retord Liêu Trong Thư Gởi Cha Khoan
“Sách có câu: Chết vinh hơn sống nhục. Hăy coi chừng kẻ bội giáo, cuộc đời họ
đáng tủi hổ biết bao. Ngược lại khắp bốn phương thiên hạ đều vang lời khen ngợi
những ai chết cho đức tin. Các vị tử đạo như tiếng kèn Thiên quốc với âm điệu
vang lừng muôn người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở lại trần gian chỉ chờ lưỡi
ŕu chặt đem về tiếp lửa cho hỏa ngục.
Máu các vị tử đạo như giọt sương đêm tưới mát vườn Giáo Hội, làm nó thêm phong
nhiêu... Tôi viết cho cha những lời vắn tắt vội vă này. Ước mong nó thành ngọn
gió đưa cha lướt êm đến bến bờ Quê Hương. Ước mong nó thành bó hoa rực rỡ với
làn hương thơm tỏa ngát niềm vui tô thắm tâm hồn cha trong cuộc chiến cuối cùng.
Xin kính cẩn tạm biệt cha. Trong lúc cầu nguyện xin đừng quên tôi nhé!” (Launay
III, tr. 37-38).