Ngày 3 Tháng 6
Thánh Phaolô ĐỔNG
Thủ ba
(1802 - 1862)
Bất Khuất V́ Chính Đạo
Một trong năm điều gay go trong chiếu chỉ cấm đạo của vua Tự Đức ban hành ngày
5.8.1861, vào tù tín hữu Kitô giáo chịu thích chữ vào hai bên má, một bên chữ Tả
Đạo, c̣n một bên là tên xă huyện của người đó. Lối thích tự bằng thanh sắt nung
đỏ vào má, để khi vết thương lành vẫn c̣n lưu lại dấu vết hầu dễ hành hạ, dễ bắt
bớ hoặc dễ phân biệt đối xử, là một sáng kiến, nếu không của vua Tự Đức th́ cũng
của một quan lớn nào đó trong triều đ́nh Huế bấy giờ. Có thể nói đây là h́nh khổ
có một không hai trong lịch sử bách hại Giáo Hội Công giáo toàn cầu.
Nhưng một cụ già khoảng 60 tuổi, đă dám hiên ngang làm trái lại điều quy định ác
nghiệt đó. Một lần bị khắc hai chữ Tả Đạo, cụ đă rạch xéo đi. Lần khác thay v́
bị quân lính khắc Tả Đạo, ông cụ xin quan, để kín đáo nhờ người bạn tù khắc lên
má hai chữ Chính Đạo, khiến quan vô cùng tức giận. Cụ già can trường đó chính là
Phaolô Đổng.
Chấp Nhận Mọi Gian Khổ
Phaolồ Đổng sinh năm 1802 tại Vực Đường, tỉnh Hưng Yên (nay là Hải Hưng). Phaolô
Đổng là một giáo dân của xứ Cao Xá, một trong những xứ có truyền thống đạo đức
lâu đời trong địa phận Trung. Ông Đổng từng làm quản lư trông nom sổ sách, tài
sản họ đạo trong suốt sáu năm trời.
Thời đó thi hành chiếu chỉ cấm đạo, các quan đi tới từng làng Công giáo lấy lư
do kiểm tra dân số, nhưng thực ra để bắt các Kitô hữu phải vâng lệnh vua mà bỏ
đạo. Quan truyền đặt tượng thánh giá xuống đất và ép buộc mọi người phải đạp
lên. Ai không chịu đạp thánh giá th́ bị trói lại, bị đóng gông giải về tỉnh. Ông
Phaolô Đổng bị bắt trong trường hợp tương tự vào ngày 25.11.1861, khi ông can
đảm nhận ḿnh là Kitô hữu, và cương quyết không chịu chà đạp thánh giá.
Quan truyền quân lính giải ông về huyện An Thi. Tại đây, quan hứa sẽ cho nhiều
tiền nếu ông bỏ đạo. Nhưng ông nhất mực từ chối và khẳng định với quan về ḷng
trung thành với Chúa Kitô. Do đó, ông phải chịu hành hạ, mang xiềng xích nặng nề
trong tù. Tiếp theo, lính được lệnh giải ông về Hưng Yên. Vừa tới cửa thành, ông
Phaolô Đổng thấy một cây thánh giá đặt trên mặt đất, ai muốn qua phải đạp lên.
Ông nhất quyết đứng lại và không chịu bước qua. Quân lính đánh đập ông tàn nhẫn,
nhưng vẫn không cưỡng bức được vị anh hùng đức tin. Sau cùng, họ nhốt ông vào
một cái cũi chật hẹp để khiêng qua.
Gần một năm trong tù cực khổ, ông Đổng ban ngày phải mang gông, đêm đến chân
chịu cùm xích. Nhiều lần bị quan tra hỏi, trước sau như một ông cương quyết giữ
vững đức tin. Lính dă man đánh đập ông nhiều lần, khiến thân ḿnh vị chứng nhân
đầy những vết thương đẫm máu.
Ông Phaolô Đổng khẳng khái không chịu cho quân lính khắc hai chữ Tả Đạo vào má,
nên bị cấm cốc (bắt nhịn ăn) nhiều ngày. Dần dần, ông rũ liệt đuối sức. Có lần
người lính canh động ḷng thương cho chút cơm và chén nước, ông lại nhường cho
người bạn tù đồng cảnh ngộ. Ít hôm sau, không chịu nổi cơn đói khát dày ṿ, ông
phải nhai vài miếng vải áo để quên đi. Thế rồi quân lính dùng sức mạnh khắc trên
má ông hai chữ Tả Đạo, nhưng ông can đảm rạch xóa đi.
Tám ngày sau, kiệt lực v́ đ̣n vọt và đói khát, ông Phaolô Đổng bất tỉnh mê man.
Quân lính phải khó khăn lắm mới làm cho ông tỉnh lại được. Quan cho phép ông ăn
uống và ra lệnh thích tự trên má ông lần nữa. Ông xin quan để người bạn tù làm
việc này. Nhưng thay v́ khắc hai chữ Tả Đạo, ông lại bảo người bạn khắc hai chữ
Chính Đạo, khiến quan xem thấy nổi giận và ra lệnh cấm cốc thêm ít ngày, rồi kết
án tử h́nh ông.
Trước ṭa điều tra phong thánh, người cháu gái ông làm chứng rằng: “Khi nghe tên
ḿnh bị trảm quyết, ông rất vui mừng, sấp ḿnh xuống đất tạ ơn Thiên Chúa, cầu
nguyện sốt sắng và đọc kinh Ăn năn tội”.
Trên đường ra pháp trường, ông Đổng dọn ḿnh chết lành và đọc kinh phó dâng linh
hồn (kinh Giáo Hội khuyên đọc giúp người hấp hối). Ông đă lớn tiếng kêu tên cực
trọng Chúa Giêsu ba lần trước khi đao phủ chém đứt đầu, đưa linh hồn vị tử đạo
về Thiên quốc. Hôm đó là ngày 3.6.1862.
Ngày 29.4.1951, trong số 19 giáo hữu được suy tôn Chân Phước tại Vương Cung
Thánh Đường Phêrô do Đức Thánh Cha Piô XII chủ sự, danh tính và tiểu sử ông
Phaolô Đổng đă khiến mọi người phải khâm phục một mẫu gương hiên ngang, can đảm
của con dân Việt Nam, tuy nhỏ bé và nghèo nàn, nhưng lại giàu nghĩa khí anh hùng
bất khuất.