Ngày 3 Tháng 7
Thánh Philiphê PHAN VĂN MINH
Linh mục
(1815 - 1852)
Lời Nguyện là Thần Lương
Bên kia bờ sông Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, trước khi đến Cái Sơn Bé, theo thói
quen, người ta dọn một bữa ăn ngon cho tử tội trước khi xử trảm. Nhưng tử tội,
linh mục Philiphê Minh đă từ chối, chẳng phải do sợ hăi nuốt không nổi, v́ trên
đường ra pháp trường cha đă chẳng luôn hiên ngang tươi cười đó sao? Thế nhưng
chỉ c̣n ít phút nữa để hoàn thành sứ mạng nơi trần thế, ít phút nhưng không phải
là quăng thời gian tầm thường, ít phút này là cao điểm của một kiếp nhân sinh.
Để sống trọn vẹn vài phút đó, cha Minh đă chọn một thức ăn khác, như một thứ
lương thực cần thiết cao quư hơn: Cha quỳ xuống, ngửa mặt lên trời âm thầm cầu
nguyện. Và sau bữa ăn tâm linh cuối cùng, cha nói ngắn gọn với lư h́nh: “đă xong
rồi”.
Một hồi chiêng trống vang lên, thời gian như chùng lại, trang trọng và linh
thiêng trong giờ phút cuối cùng của đời cha. Những giây phút thật ư nghĩa, thật
trọn vẹn, thật tràn trề trôi qua, cha được bước vào cơi hạnh phúc vĩnh cữu sau
khi lư h́nh vung nhát gươm kết liễu cuộc hành tŕnh làm chứng cho Đức Kitô.
Soạn Giả Tự Điển
Sinh trưởng trong một gia đ́nh đạo đức và lễ nghĩa thuộc làng Cái Mơn, huyện Moœ
Cày, tỉnh Vĩnh Long, năm Ất Hợi 1815. Philiphê Phan văn Minh, con ông Đaminh
Phan văn Đức và bà Anna Tiếu, là người con út trong gia đ́nh có mười bốn anh chị
em. Cha mẹ cậu mất sớm, mọi việc trong nhà đều do một người chị đảm đang. “Bà mẹ
thứ hai” này đă hết ḷng lo cho các em cả về vật chất lẫn tinh thần. Cậu Minh
được học hoœi giáo lư chu đáo để rước lễ lần đầu, rồi lănh nhận bí tích thêm sức
năm 13 tuổi. Sau đó cậu được Đức cha Tabert Từ nhận cho đi học chủng viện Lái
Thiêu. Nhưng chỉ ít lâu, do sắc lệnh cấm đạo 1833 của vua Minh Mạng, chủng viện
phải giải tán.
Thời gian này thầy Minh được theo Đức cha Từ qua Thái Lan, rồi đến trọ tại chủng
viện Pénang, Mă Lai. Thầy có vinh dự được Đức cha gọi qua Calcutta (Ấn Độ) để
hợp tác với ngài soạn bộ tự điển Latinh-Việt Nam năm 1838. Khi Đức cha qua đời,
thầy lại trở về Pénang tiếp tục học thần học. Các giáo sư và bạn học đều quư mến
thầy, một sinh viên xuất sắc, học gioœi và có tinh thần đạo đức.
Vị Tông Đồ Hăng Say
Hết thời gian học tại Pénang, thầy Minh trở về nước và được Đức cha Cuénot Thế
truyền chức linh mục năm 1840 tại Gia Hựu (1). Sau khi vua Minh Mạng băng hà,
Giáo Hội được hưởng một thời kỳ an b́nh dễ chịu hơn. Vua Thiệu Trị lên ngôi tuy
không hủy boœ những sắc lệnh cấm đạo, nhưng không gắt gao thi hành như trước
nữa. Nhờ đó cha Minh có thể đi thăm viếng, dạy kinh cho các tín hữu vùng Tiền
Giang, Hậu Giang. Những làng như Đầu Nước, Xoài Mút, Chợ Bưng, Ba Giống, Cái
Nhum, Cái Mơn, Băi San, Chà Và, Mặc Bắc... đều c̣n ghi dấu chân truyền giáo của
cha. Khi vua Tự Đức lên ngôi năm 1847, việc cấm đạo vẫn lắng dịu ít lâu. Nhưng
sau đó lại trở nên dữ dội hơn bao giờ hết.
Sau chiếu chỉ tháng 8.1848, và nhất là chiếu chỉ tháng 3.1851 truyền phải chém
đầu thả trôi sông Tây Dương Đạo Trưởng, tra tấn và xử các giáo sĩ bản quốc cố
chấp, phát lưu những người theo “Giatô tả đạo”. Vua c̣n ghi rơ các quan phải
triệt để thi hành mệnh lệnh này.
Trong t́nh h́nh mới hết sức khó khăn đó, cha Minh vẫn b́nh tĩnh chu toàn phận sự
của một mục tử: cha vẫn đi lại khuyến khích các tín hữu, mở các lớp giáo lư và
trao ban các bí tích.
Khi đó ở làng Mặc Bắc, có một người tên Nhẫn, v́ có lần xin tiền cha Lựu không
được, nên để tâm thù oán và đi tố giác với quan. Ngày 26.2.1852, quan sai lính
đến vây nhà ông trùm Lựu, nhưng cha Lựu đă đi nơi khác, c̣n cha Minh và vài
chủng sinh đang trọ ở đó. Để cứu cha Minh, ông trùm Lựu đứng ra nói: “Thưa quan,
không có đạo trưởng Lựu ở đây. Lựu chính là tên tôi”. Họ thấy dáng dấp cụ chỉ là
nông dân lam lũ, nên tiếp tục đi lục soát khắp nhà. Khi đó cha Minh sợ quan quân
v́ ḿnh mà hại gia đ́nh ông trùm, nên ra mặt nhận ḿnh là linh mục. Thế là cùng
với bảy vị chức dịch trong vùng, cha vị bắt trói, đeo gông và đẩy xuống thuyền
đưa về giam tại Vĩnh Long.
Tại đây quan Tổng đốc hạch hoœi cha về các linh mục khác, những nơi đă trú ẩn,
nhưng không khai thác được điều ǵ cả. Những ngày sau, quan dùng mọi cách, khi
th́ dụ dỗ, khi dọa nạt, khi sai lính kéo cha qua khoœi thập giá để bắt cha chối
đạo. Nhưng cha Minh vẫn giữa lập trường của ḿnh, trung thành với Đức Kitô và
Giáo Hội. thấy cha c̣n trẻ, mới 38 tuổi, lại hiền lành học thức, các quan muốn
t́m cách cứu cha, họ không bắt cha bước qua thập giá nữa, chỉ cần cha nói miệng
là “đă boœ đạo” cũng được tha. Nhưng cha Minh một mực từ chối đề nghị này.
Đường Về Trời
Không thể làm ǵ hơn được, các quan cho lính đưa cha về giam tại Tuyển Phong chờ
ngày lănh án. Nghe án xử từ kinh đô đă gửi về, cha Minh quỳ gối tạ ơn Chúa, rồi
an ủi các anh em bạn tù nên vui ḷng tuân theo ư Chúa, hẹn tái ngộ trên nước
trời. Cha nói: “Xin anh em vững ḷng tin và hết dạ cậy trông Chúa. Ngài chẳng từ
boœ ai, và sẽ thưởng công bội hậu cho những ai tận tâm tôn thờ Ngài”. Cha cũng
căn dặn một tín hữu ở ngoài, tiền bạc của cha nếu c̣n lại, đừng phí tốn ma chay
lớn làm chi, cứ đem phân phát hết cho người nghèo.
Cuối cùng ngày mong đợi của cha đă đến. Cha vui vẻ lần chuỗi tiến ra pháp
trường. Qua bờ sông Long Hồ đến Cái Sơn Bé, quân lính dọn bữa ăn sau cùng, nhưng
cha Minh không thiết ǵ nữa. Cha chăm chú cầu nguyện. Sau hồi chiêng trống rền
vang, lưỡi gươm lư h́nh đă đưa linh hồn vị anh hùng tiến thẳng về Thiên quốc.
Lời nguyện cầu thánh thiện sau hết cha Minh c̣n âm vang trong ḷng những người
hiện diện:
“Lạy Chúa, xin thương xót con. Lạy Đức Giêsu, xin cho con sức mạnh và can đảm
chịu khổ để vinh danh Ngài. Lạy Mẹ Maria, xin nâng đỡ con”.
Hôm đó là ngày 3.7.1853. Thi thể vị tử đạo được đưa về an táng dưới nền một nhà
thờ mới bị đốt phá ở Cái Mơn. Năm 1960, di cốt của Ngài được đưa về Vương Cung
Thánh Đường Sàig̣n trong dịp lễ cung hiến.
Đức Lêo XIII Suy tôn cha Philiphê Phan văn Minh lên bậc Chân Phước ngày
27.5.1900. Chủng viện địa phận Vĩnh Long đă nhận Thánh Philiphê Minh làm bổn
mạng.
(1): Đức cha Lefebre Nghĩa bị giam ở Cung Quán viết thư giới thiệu thầy Sá Minh
đến Đức cha Thế.