Ngày 31 Tháng 7
Thánh Phêrô ĐOÀN CÔNG QUƯ
Linh mục
(1826 - 1859)
Những Năm Thơ Ấu
Ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anê Nguyễn thị Thường sinh sống ở Bắc Việt cho
đến năm 1820. Cả gia đ́nh di cư vào Nam ở tại họ Búng, làng Hưng Thịnh, tổng
B́nh Thạnh, hạt Thủ Dầu Một (nay là tỉnh B́nh Dương). Năm 1826, người con trai
út, Phêrô Đoàn công Quư chào đời. Đây là người con thứ sáu trong gia đ́nh, và là
hy lễ của gia đ́nh ông Miêng hiến dâng cho Thiên Chúa.
V́ thấy cậu con út thông minh, nên ông Miêng cố lo liệu để cậu chuyên chăm theo
đường học vấn, với hy vọng mai sau nối ḍng thi lễ, làm vẻ vang cho gia tộc.
Nhưng Thiên Chúa muốn cho người con út này đi theo con đường khác. Cậu Quư
thường lui tới gặp gỡ và học hỏi cha Tám ở nhà thờ họ Búng. Một thời gian sau,
cậu xin phép cha mẹ được ở luôn với người, thỉnh thoảng mới về thăm gia đ́nh.
Theo Tiếng Chúa Gọi
Năm 1847 cha Tám giới thiệu chàng trai 21 tuổi này với cha Gioan Miche Mịch để
được học hỏi tiếng Latinh và tiếp tục theo đuổi ơn gọi tu tŕ. Sau khi học tiếng
Latinh tại nhà cha Mịch, cậu Quư được học tại chủng viện Thánh Giuse (Thị Nghè)
do cha Borelle làm giám đốc. Năm 1848, thầy Quư được du học tại chủng viện của
hội thừa sai Paris ở Penang (Mă Lai). Tại đây thầy học triết lư và thần học,
ngôn ngữ, văn chương. Việc huấn luyện như thể được coi là khá đầy đủ cho một
linh mục thuộc miền truyền giáo trở về hoạt động tại quê hương.
Trên Con Đường Sứ Vụ
Năm 1855, thầy Quư hồi hương vào thời kỳ vua Tự Đức ra sắc chỉ cấm đạo gắt gao.
Tháng 9.1855, vua Tự Đức ra chiếu chỉ thứ ba, trong đó không những lùng bắt các
đạo trưởng, mà c̣n bắt cả giáo hữu phải xuất giáo, triệt hạ các thánh đường, phá
hủy các cơ sở tôn giáo... Với hoàn cảnh bất lợi này, Đức cha Lefebre Nghĩa trao
cho thầy nhiệm vụ săn sóc, dạy dỗ, động viên giáo hữu tại các họ đạo. Qua một
thời gian hoạt động, thầy tỏ ra là người nhiều khả năng, nên Đức cha đă truyền
các chức nhỏ cho thầy. Sau ba năm thi hành việc mục vụ tại các giáo họ, tháng
9.1858, thầy Quư được lănh chức linh mục tại nhà thờ Thủ Dầu Một. Sau một thời
gian phục vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định và Kiên Ḥa, Đức cha bổ nhiệm
cha Phêrô Quư làm phó xứ Cái Mơn (Vĩnh Long).
Cha Phêrô Quư được tuyển chọn vào cánh đồng truyền giáo trong giai đoạn đặc biệt
của đất nước: Pháp và Tây Ban Nha đem quân đánh phá ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) vào
tháng 9.1858 làm cho vua Tự Đức càng thêm căm ghét các giáo sĩ nước ngoài và đạo
Thiên Chúa. Do đó cuộc bách hại ngày càng khốc liệt hơn. Nhưng nhiệt t́nh truyền
giáo đă làm cho cha Quư vượt thắng mọi gian khổ, đe dọa, hiểm nguy. Chỉ ba tháng
sau khi cha về Cái Mơn, quân lính bao vây ḍng Mến Thánh Giá Cái Mơn để lùng bắt
giáo sĩ, nhưng không có vị nào ở đó, nên lính bắt giam một số nữ tu để tra tấn,
khai thác các chị về chỗ ở của các ngài. Nghe tin các nữ tu bị bắt, cha Quư muốn
nộp mạng để lính tha cho chị em, nhưng giáo hữu ngăn cản và không để cha thực
hiện ư định này. Cha vẫn ao ước sẵn sàng hy sinh tính mạng để thế cho các chị.
Cha chỉ bỏ ư định này khi có lệnh rơ ràng của cha bề trên địa phận Borelle Ḥa.
Từ đó, cha cải trang thành thường dân, đi thăm viếng, an ủi, và ban các bí tích
cho các giáo hữu.
Chặng Đường Khổ Giá
Đức cha bổ nhiệm cha Quư về giáo họ Đầu Nước ở Cù Lao Giêng, tỉnh An Giang ngày
27.12.1858, th́ mười ngày sau (7.1.1859) quan tổng đốc An Giang được mật báo có
Tây dương đạo trưởng ẩn tại nhà ông Lê văn Phụng ở Đầu Nước. Quan sai một trăm
lính đến bao vây nhà ông Phụng. Khi lính gần đến làng, giáo hữu tới báo tin cho
gia đ́nh ông Phụng. Nghe tin này cha Pernot Định đă đề nghị với cha Quư cùng đi
trốn, nhưng cha Quư b́nh tĩnh trả lời: “Tôi là người bản xứ chắc quan quân khó
nhận ra, cha cứ đi trước tôi ở lại thu dọn đồ lễ khỏi gây phiền hà cho chủ nhà
và giáo họ rồi sẽ theo sau. Sau khi cha Pernot ra khỏi, th́ quan quân ập tới.
Cha Quư chạy và ẩn nấp dưới sàn nhà, quan ra lệnh cho ông Phụng phải nộp đạo
trưởng Tây như đă được mật báo. Ông Phụng cương quyết trả lời là không có ai là
đạo trưởng Tây cả. Quan dọa là nếu không tuân lệnh th́ sẽ bị đánh đ̣n. Thấy lính
sắp sửa đánh đ̣n chủ nhà, cha Quư tự ra nhận ḿnh là đạo trưởng. Lính không chịu
nghe và nói chắc chắn là có tên đạo trưởng Tây ở trong nhà này. Cha Quư lại
cương quyết khẳng định: “Không có Tây Dương đạo trưởng nào ở đây, chỉ có tôi là
đạo trưởng. Ai muốn theo đạo, tôi sẵn sàng chỉ dạy”.
Thấy cha Quư c̣n trẻ, quan không tin ngay, liền hỏi em nhỏ mười tuổi, cháu nội
của ông Phụng xem đạo trưởng là ai. Nó chỉ vào cha Quư và thưa: “Bẩm ông này ạ”.
Lính liền trói cha Quư, ông Phụng và ba mươi hai giáo hữu, rồi xiềng xích giải
về Châu Đốc. Đến Châu Đốc, lính áp giải cha Quư đến quan Tổng đốc. Quan thẩm vấn
cha nhiều điều và hứa sẽ tha cho về nếu như cha tuyên bố bỏ đạo, theo như chiếu
chỉ của nhà vua. Nhưng cha Quư vẫn kiên quyết nhận ḿnh là đạo trưởng, không bao
giờ bỏ đạo Thiên Chúa.
Lần khác, quan nói với cha: “Thầy là người thanh liêm, nhân từ, đức hạnh, tại
sao lại mê theo tà đạo, hăy nghe ta mà bỏ đạo đó đi”. Cha Quư trả lời: “Dạ thưa
quan, tôi là người giảng dạy đạo này, sao lại có thể bỏ đạo cho được? Vả nữa đây
là chính đạo, v́ chỉ dạy các điều tốt lành, chớ không phải là tà đạo như quan
hiểu lầm đâu”. Quan ra lệnh tống giam cha và sau đó dùng nhiều phương kế dụ dỗ,
đe nạt, tra tấn ḥng làm thay đổi lập trường của cha. Nhưng cha vẫn một ḷng
trung kiên với chính đạo, sau cùng, quan thảo bản án trảm quyết gửi về kinh đô.
Bảy tháng trong ngục cha Quư động viên các bạn tù, cử hành bí tích, nguyện ngắm
và đọc kinh Mân Côi với họ. Một số giáo hữu đến thăm cha, có cả linh mục bản
quốc cải trang để vào giải tội và cho cha rước Thánh Thể.
T́nh Thương Thân Mẫu
Dù sống trong cảnh tù ngục, cha Quư vẫn tưởng nhớ đến thân mẫu của ḿnh (thân
phụ đă qua đời). Cha gởi thơ kính thăm và báo tin cho thân mẫu biết tin ḿnh sắp
được phúc tử đạo:
“Kư vụ thân mẫu đôi chữ trường tri
Kể từ ngày con vâng lệnh ra đi
Ḷng lă chă lụy rơi luồng lụy
Ngỡ tới đây hành công biện sự
Một hai tháng về viếng từ thân
Ai ngờ rầy sớm tách ĺa phân
Trời cùng nước không hề vầy hiệp
Hễ đạo làm tôi đua giữ lời răn dạy
Cho nên con vâng lệnh chỉ sai
Đàng xa xôi cách trở lại chi nài
Miễn đặng tiếng vâng lời chịu lụy
Khi con tới An Giang tạm nghỉ
Gặp chân trời mở hội khoa thi
Nên con phải liều công ứng cử
Ấy là Thiên Chúa nhi sổ nhiên
Nhơn tất tùng chi, nhi dĩ hỉ.
Dầu trăng trói, gông cùm tù rạc
Chén ngục h́nh xiềng tỏa chi nề
Miễn vui ḷng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử
Chí con dốc đền công ơn Chúa
Dạ con làm báo nghĩa mẹ cha
Xin mẫu từ chớ chút phiền hà
Một cam chịu cho danh Cha cả sáng
Nay thơ
Thân tử Bá đa Lộc Đoàn quốc Quư
Linh mục bổn quốc
Sau Ba Tiếng Chuông Ngân
Ước vọng hiến dâng trọn vẹn cuộc đời cho Thiên Chúa của cha Phêrô Đoàn công Quư
đă được chấp nhận. Ngày 30.7.1859, bản án trảm quyết cha được gửi từ kinh đô về
đến Châu Đốc cùng với bản án ông Emmanuel Lê văn Phụng. Sáng hôm sau (31.7), cha
Quư và ông Phụng hớn hở đi ra pháp trường ở xóm Chà Và cùng với quan quân và
giáo hữu. Người lính đi trước tay cầm tấm thẻ của cha Quư và thỉnh thoảng đọc
to:
“Tự Đức thập tam, An Giang tỉnh, kỷ vị niên, thất nguyệt, sơ nhi nhật.
Thẻ: Đạo trưởng Đoàn công Quư, tùng gian đạo, tụ tập đạo đồ, đạo chủng, đạo thủ:
bất khẳng khóa quá, vi phạm pháp quốc, luật h́nh trảm quyết”.
Đến nơi xử án, hai vị chứng nhân Chúa Kitô: cha Quư và ông Phụng, cùng quỳ xuống
cầu nguyện. Sau đó cha Quư giải tội cho ông Phụng... Giờ hành xử đă đến, ba
tiếng chuông vang lên giữa pháp trường, lư h́nh chém cha Quư ba nhát gươm, đầu
cha ĺa khỏi thân ḿnh và rơi xuống đất. Vị tử đạo từ giă cơi đời trở về quê
hương vĩnh cửu với tuổi đời ba mươi ba, sau một năm thi hành chức vụ linh mục.
Thi hài vị tử đạo được an táng tại nhà thờ Năng Gù, sau được cải táng về chủng
viện Cù Lao Giêng năm 1959 nhân dịp bách chu niên cuộc tử đạo.
Đức Thánh Cha Piô X suy tôn Chân Phước cho cha Phêrô Đoàn công Quư ngày
2.5.1909.