Ngày 7 Tháng 6
Thánh Giuse TRẦN VĂN TUẤN
Nông dân
(1824 - 1862)
Dấu Hiệu Đức Cậy
Sự lạc quan trước những thử thách, đó là điều Thiên Chúa hằng mong đợi nơi mỗi
người tín hữu. Chúng ta có thể gọi sự lạc quan ấy là Đức Cậy, v́ dựa vào sức
mạnh của Chúa và vững tin vào ngày mai tươi sáng. Nếu đă tin vào Đức Kitô, Đấng
đă chiến thắng các quyền lực sự ác, chúng ta thấy rằng không có ǵ có thể làm
lay chuyển công tŕnh Người thực hiện trên thế giới này. Đối với những thử thách
lớn lao hơn như cuộc tử đạo, như những h́nh khổ, mà chỉ cần một hành vi chối đạo
cũng đủ để thoát khỏi, th́ thái độ lạc quan kiên quyết của người tín hữu quả là
một cuộc hiển dương Đức Cậy, như trường hợp Thánh Giuse Tuấn.
Sau một năm rưỡi tù đày cực khổ, các quan chỉ yêu cầu vị chứng nhân bước qua
thánh giá để được tha về. Nhưng chẳng những người tôi tớ Chúa không tuân lệnh
quan, lại c̣n kính cẩn quỳ gối trước ảnh Chuộc tội mắt hướng về trời cao và cầu
nguyện lớn tiếng:
“Lạy Chúa, con hết ḷng cảm tạ trước t́nh yêu bao la và ḷng thương xót hải hà
của Chúa. Chúa là sức mạnh đỡ nâng con”.
Người Nông Dân Hiền Lành
Giuse Trần văn Tuấn chào đời năm 1824 tại làng Nam Điền, một họ đạo xứ Phú Nhai,
trong mái gia đ́nh sinh sống nghề ruộng nhiều đời trên vùng đồng bằng sông Hồng
thuộc tỉnh Nam Định (nay là Hà Nam Ninh). Cũng như ngàn người nông dân Việt Nam,
niềm vui của anh là con trâu luống cày, để thu hoạch những bông lúa nặng trĩu do
những giọt mồ hôi và công sức của ḿnh.
Cùng với những giáo hữu đồng cảnh ngộ, cuộc đời anh Giuse Tuấn bỗng nổi cơn sóng
gió v́ những chiếu chỉ cấm đạo của nhà vua. Cuộc bách hại vào giai đoạn cao điểm
này đă ảnh hưởng đến các phần tử nhỏ bé tầm thường nhất trong Giáo Hội Việt Nam.
Năm 1860, anh Tuấn bị bắt vào năm 36 tuổi, và bị giải tới phủ Xuân Trường cùng
với một số giáo hữu khác. Về sau, anh lại bị phân sáp vào làng An Bái, thuộc
huyện Thũy Anh.
Máu Đào Minh Chứng
Từ khi về làng An Bài, anh Giuse Tuấn bị giam trong ngục chật hẹp, cổ mang gông,
chân mang cùm xiềng xích. Nhưng người chiến sĩ đức tin vẫn kiên tŕ chịu đựng
trong nhẫn nại và vui vẻ. Theo chiếu chỉ Phân sáp tháng 8.1861, quân lính nung
đỏ thanh sắt, và khắc vào má anh một bên chữ Tả Đạo, một bên là nguyên quán làng
xă. Sau những ngày tháng tù tội cơ cực, sức khỏe anh Tuấn suy giảm rất nhiều,
các quan tưởng anh sẽ nản chí bỏ cuộc, nên điệu ra và yêu cầu anh bước qua thánh
giá. Quan c̣n hứa ban tặng tiền bạc sau khi trả tự do cho anh.
Nhưng các quan đă thất bại chua cay. Người nông dân tầm thường đó không dễ bị
lung lạc thối chí. Ngược lại, anh có thừa trung tín và can đảm để biểu lộ niềm
tin của ḿnh. V́ tin vào Đấng Sáng tạo yêu thương vô biên, và tin vào Đấng Cứu
Thế, nguồn trợ lực tâm hồn, anh Giuse Tuấn thành kính quỳ trước ảnh Chuộc Tội
nói lên lời cảm tạ Thiên Chúa, Đấng mà chính anh đang cảm nghiệm được sự nâng đỡ
của Ngài. Và anh đă phải trả giá cho niềm tin đó: Quan đă kết án tử h́nh người
chiến sĩ Đức Kitô làng Nam Điền. Ngày 7.6.1862, trên đường tới nơi xử trảm, anh
Giuse Tuấn b́nh thản đi sau đám quân lính, vừa đi vừa sốt sắng đọc kinh Cầu Các
Thánh. Tới nơi, lư h́nh đă vung gươm chém đầu vị chứng nhân, đang khi anh quỳ
gối, miệng vẫn liên tục kêu tên cực trọng Chúa Giêsu. Người nông dân chất phác
hiền ḥa nhưng đạo đức gan dạ, đă dùng chính máu ḿnh thay v́ ngôn từ, để làm
chứng cho Đức Giêsu Kitô, Nguồn Chân Lư vĩnh cửu bất diệt. Hai năm sau, thi hài
tử đạo được các giáo hữu cải táng và long trọng rước về chôn cất tại nhà thờ họ
Nam Điền, quê quán của Ngài.
Ngày 29.4.1951 cùng với 24 vị tử đạo khác tại Việt Nam, người nông dân nghèo khó
thánh thiện, Giuse Trần văn Tuấn, đă được Đức Thánh Cha Piô XII suy tôn lên bậc
Chân Phước.
Ngày nay chúng ta không có hoàn cảnh tử đạo như các ngài ở thế kyœ trước, nhưng
với những khó khăn thử thách vẫn thường xảy đến, chớ ǵ chúng ta vẫn noi gương
Đức Cậy của Thánh Giuse Tuấn để măi măi ca tụng Thiên Chúa.
“Lạy Chúa, con hết ḷng cảm tạ trước T́nh yêu bao la và ḷng thương xót hải hà
của Chúa. Chúa là sức mạnh đỡ nâng con”.