Kể xong câu chuyện "Cổ Tích Trên Đỉnh Mồ
Côi", tôi vẫn còn ray rứt trước hai câu hỏi
không tìm ra lời đáp: Thứ nhất, liệu anh
Bông có lấy vợ được không ở cái tuổi bốn lăm
? Người phụ nữ, dù có rộng lượng đến đâu
cũng không thể ưng một người chồng đang nuôi
11 đứa con nheo nhóc. Thứ hai, chuyện học
hành của 11 đứa trẻ ấy rồi sẽ ra sao giữa
đỉnh núi cao hoang vu, heo hút, đường đến
trường quanh co, năm ba cây số, dốc núi dựng
đứng, trập trùng ?
Tôi đã gởi vào đoạn kết câu chuyện một nỗi
lo cùng với một niềm tin mong manh, rằng : "
Khi bà Tiên qua đời, liệu anh tiều phu có lo
cho những thiên thần bé nhỏ ấy học hành đỗ
đạt hay không ? Những câu chuyện cổ tích bao
giờ cũng đi đến một kết thúc có hậu. Nhưng
dân gian thường hay lý giải sự bế tắt bằng
những phép màu. Và tôi hy vọng trong câu
chuyện nầy, sẽ có một phép màu nào đó đến
với anh Bông. Phép màu ấy chính là cái tâm,
là lòng nhân ái đang ẩn chứa đâu đây, trên
cõi đời nầy".
Và, cái phép màu ấy đã đến với anh Bông và
những đứa trẻ mồ côi sau khi câu chuyện được
kể trên Sài Gòn Tiếp Thị.
Một buổi tối, Dì Ba gọi điện cho tôi, nói
như nửa đùa nửa thật: "Con biết không, mấy
ngày qua có nhiều cô từ miền Trung đến miền
Tây, rồi cả bên Mỹ gọi điện cho thằng Bông
để chia sẻ, bày tỏ tình cảm, nhã ý muốn lên
đây làm mẹ của mấy đứa nhỏ, giờ con tính sao
?"
Gần một năm sau tôi trở lại Đỉnh Mồ Côi thì
Câu Chuyện Cổ Tích đã có nhiều thay đổi đến
không ngờ. Con đường lên đỉnh núi đã được
tráng xi măng để xe gắn máy dễ dàng lên
xuống, anh Bông cho biết, ngay tuần đầu sau
khi câu chuyện được lên báo, nhiều tổ chức,
cá nhân đã mang tiền lên giúp sức, kẽ ít
người nhiều, trước hết là giúp anh làm con
đường bê tông để giảm bớt nỗi nhọc nhằn khi
lên xuống núi. Mới đây, một nhóm thanh niên
gọi là nhóm chim cò gồm 36 người do dược sĩ
Trần Anh Tuấn dẫn đầu từ Đồng Nai lên chơi ,
chở lên ba tấm nệm Kim Đan, mấy thùng đồ
chơi trẻ em và 14 triệu đồng tặng cho đám
trẻ.Có một câu chuyện rất cảm động mà dì Ba
nói rằng dì sẽ giữ bí mật cho đến khi nào
tôi trở lại để dì dành cho tôi một sự ngạc
nhiên.
Hôm ấy, có một chàng trai tên là Minh Triển
từ Mỹ trở về, một thân một mình trèo lên
đỉnh núi, khi tới nơi, anh ôm những đứa trẻ
vào lòng rồi bật khóc. Anh nói, đọc câu
chuyện trên mạng tưởng người ta hư cấu,
không ngờ sự thật là như vậy. Minh Triển
cũng không nói gì thêm, trước khi ra về, anh
gởi cho dì Ba 300USD cùng với lời hứa sẽ tìm
cách giúp dì với anh Bông lo cho mấy đứa nhỏ
học hành.
Mấy tuần sau, Triển gọi điện qua nói với dì
Ba: "Con xin phép được làm con nuôi của má,
làm em của anh Bông, làm chú của 11 đứa trẻ
để con được góp sức chăm lo cho tụi nó". Thì
ra, trong chuyến đến thăm lần ấy, Triển đã
khảo sát dưới chân núi Cấm có trường học dạy
từ lớp một đến lớp 12. Anh đề nghị anh Bông
xuống chân núi mua đất xây nhà cho các cháu
có chỗ ở gần trường để học hành, công việc
tiến hành tới đâu Triển gởi tiền về tới đó.
Đến nay, ngôi nhà đã được hoàn tất, chiều
ngang 9 mét, chiều dài 20 mét, một trệt một
lầu, phía sau có 1.000 mét vuông đất vườn.
Anh Bông cho biết, Triển gởi về tổng cộng
45.000USD. Ngôi nhà 360 mét vuông, mỗi đứa
một phòng ngủ riêng, đó là ý tưởng của Minh
Triển vừa tập cho các cháu sinh hoạt độc
lập, vừa dự phòng khi chúng lớn lên có đủ
không gian để sinh hoạt cá nhân.
Lê Minh Triển với gia đình dì Ba
trong ngôi nhà mới xây dưới chân núi
Minh Triển là ai ? Tôi gởi lại địa chỉ mail
cho anh Bông với hy vọng sẽ liên lạc với con
người khá bí ẩn nầy.
Anh Bông lấy ra cho chúng tôi xem hơn mười
lá thư của các chị, các cô gởi về, không chỉ
từ mọi miền đất nước mà cả những lá thư cách
nửa vòng trái đất. Mỗi người kể một hoàn
cảnh, một tâm sự khác nhau. Nhưng thật đáng
trân trọng vì hầu hết những lá thư đều bày
tỏ lòng trân trọng với anh Bông. Ai cũng
muốn chung vai gánh vác với anh một phần
trách nhiệm. Một chị ở Hà Nội tâm sự rằng,
chị lấy chồng gần năm năm nhưng không có khả
năng sinh con, bị chồng bỏ đi lấy vợ khác,
chị sống trong những ngày tuyệt vọng thì
tình cờ đọc được câu chuyện về anh, bỗng
dưng chị khát khao muốn được làm mẹ của
những đứa con anh, được bồng ẵm, được chăm
sóc chúng như con ruột của mình. Một chị ở
Cali thì đặt thẳng vấn đề kết hôn với anh và
bảo lãnh cho những đứa con anh du học. Tôi
hỏi Bông tính sao, anh cười hiền: "Mình
chẳng biết tính sao cả, đã thề sống độc thân
để nuôi tụi nó rồi, giờ lấy vợ, liệu người
ta có thương tụi nó bằng mình không, nói thì
nói vậy chớ chạm vào thực tế mới biết, không
khéo sẽ đỗ vỡ hết, sẽ nát bét hết . . ."
*
Mấy ngày sau, tình cớ tôi nhận được mail của
Minh Triển, anh tâm sự khá dài. Ngoài những
điều như dì Ba và anh Bông kể, Triển còn cho
biết tuổi thơ của anh ở Trà Vinh đã trải qua
những tháng ngày cơ cực, mồ côi cha từ bé,
phải nghỉ học sớm để mưu sinh.
Năm 15 tuổi, Triển theo một chiếc tàu đánh
cá ra khơi và không ngờ rằng mình đặt chân
lên đất Mỹ. Tuổi thơ lưu lạc, khao khát tình
thương. Khi lên tới Đỉnh Mồ Côi, Triển như
thấy bóng dáng thân phận mình qua từng đứa
trẻ. Về Mỹ, anh quyết định gom đến đồng bạc
cuối cùng của mình dành dụm bao nhiêu năm để
làm một điều gì đó nhằm giảm bớt nỗi bất
hạnh cho những đứa trẻ ấy, Triển cảm thấy
như được bù đắp cho những mất mát của chính
tuổi thơ mình.
*
Tháng 5 năm 2010, tôi sang Mỹ và gởi mail
báo tin cho Triển. Một sáng sớm, Triển đến
đón tôi từ Fullerton về San Diego, nơi anh
đang ở. Những ngày ở đây, tôi lại được sống
trong câu chuyện cổ tích và những phép màu:
Em mồ côi cha từ nhỏ, năm 15 tuổi, em theo
một chiếc ghe biển làm thuê kiếm tiền nuôi
mẹ và hai đứa em. Một hôm, em thấy lạ, chiếc
ghe cứ đi mãi, đi mãi không đánh cá mà cũng
không về, và em đã hiểu ra rằng họ đi vượt
biên. Cuộc đời em bắt đầu sang trang từ đó.
Những ngày đầu sống trên đảo Bidong, em tìm
đến xin việc ở một lò bánh mì của một người
Việt tỵ nạn, người ta không nhận, em tìm gặp
ông chủ để năn nỉ:" Xin ông cho con được làm
công, không cần trả lương, chỉ cần ông cho
con mỗi ngày hai ổ bánh mì thôi". Ông nhận
em vào làm và được trả công mỗi ngày hai ổ
bánh mì. Được vài tháng em nói với ông chủ:
" Con muốn đi bán bánh mì nhưng không có
vốn, xin ông cho con lấy bánh trước, chiều
về con trả tiền". Ngày đầu em lấy mười ổ đi
bán trong các trại tỵ nạn, ngày sau mười lăm
ổ, rồi hai mươi ổ . . . con số cứ tăng dần.
Không biết từ lúc nào, ông chủ lò bánh mì
thương em như con ruột. Một hôm ông gọi em
đến nói: " Tao được xét đi Úc rồi, cái lò
bánh mì có nhiều người mua nhưng tao không
bán, tao tặng lại cho mầy . . .". Những ngày
trước khi đi, ông chỉ dạy cho em cách làm
bánh. Bỗng dưng em trở thành ông chủ nhỏ như
một giấc mơ. Vài tháng sau em có tiền, em
tiếp tục mua thêm một lò bánh mì nữa của một
người được xét đi Mỹ. Khoảng sáu tháng sau,
trên đảo xảy ra sự cố: Một người tỵ nạn say
rượu nổi loạn bắn chết một nhân viên của Cao
ủy. Họ nỗi giận, họ trừng phạt bằng cách cắt
trợ cấp lương thực. Hàng ngàn người tỵ nạn
rơi vào tình trạng đói khát. Lúc ấy, hai lò
bánh của em không kinh doanh nữa mà chuyển
sang cứu đói, mỗi ngày làm ra bao nhiêu bánh
mì em đem phát không cho họ. Nhiều người
mắng chửi em ngu dại, đây là thời cơ hốt bạc
mà không biết nắm bắt để kinh doanh. Em nghĩ
đã đến đây, đã lâm vào tình cảnh nầy thì ai
sao mình vậy. Bao nhiêu vốn liếng em tiếp
tục bỏ ra mua bột làm bánh cứu đói đến đồng
bạc cuối cùng, đến hai lò bánh mì đóng cửa.
Sau sáu tháng trừng phạt, Cao ủy họ tiếp tục
cứu trợ lương thực cho người tỵ nạn. Một
người quen tới rủ em: " Mầy có lò bánh, có
nghề, tao có ít vốn, mình hợp tác làm ăn".
Hai lò bánh mì hoạt động trở lại cho đến
ngày em đi Mỹ.
Sang Mỹ, em lại gặp một sự cố đáng buồn. Lúc
làm hồ sơ đi Mỹ, theo quy định thì những
người dưới 18 tuổi phải có người đỡ đầu, tối
thiểu phải là họ hàng thân thuộc, em nhờ một
người quen nhận em là cháu. Nhưng khi tới Mỹ
thì họ lấy hết tiền trợ cấp, mỗi tuần chỉ
đưa lại cho em 10USD. Em với mấy người bạn
Việt cùng cảnh ngộ se phòng trọ để đi học,
đi nhặt rác và đi giao báo để kiếm sống. Mỗi
tuần kiếm được năm bảy chục đô, cứ lây lất
như thế cho đến khi vào đại học. Và, cuộc
đời em sẽ không biết ra sao nếu không có một
"phép màu", em cho rằng đó là một phép màu.
Hôm ấy một thằng bạn rủ em tới nhà cha nuôi
của nó chơi. Ông nầy là một người Mỹ, trước
đây là một tiểu thương đã nghỉ hưu, sống độc
thân và khá giả, ông đã nhận bốn sinh viên
Việt Nam làm con nuôi. Sau cuộc gặp gỡ ấy,
ông lại nhận thêm em, là đứa con nuôi thứ
năm. Từ đó, thỉnh thoảng ông gọi em tới
chơi, làm thức ăn đãi em, rồi hỏi thăm, dạy
bảo. Dần dà, em cảm nhận ở ông một tình cảm
rất lạ, rất đầm ấm, rất chân thành. Có hôm
trời mưa, ông gọi điện hỏi em đang ở đâu, em
nói đang ở ngoài đường. Giọng ông tỏ ra lo
lắng: " Tao đã bảo mầy trời mưa không được
ra ngoài !".
Một hôm ông gọi em tới và ôn tồn nói:" Tao
thấy mầy học ngành điện không ổn, ở đây có
nhiều kỹ sư điện thất nghiệp, còn nếu có
việc làm thì cũng chỉ đủ sống. Mầy nghỉ học
đi, mở cái công ty cắt cỏ, tao giúp cho". Ở
Mỹ, trừ khu trung tâm thành phố, mỗi nhà đều
bắt buộc phải có khu đất trồng cỏ, nếu không
trồng thì bị phạt, còn trồng mà hàng tháng
không cắt theo quy cách cũng bị phạt. Ông tư
vấn cho em từ việc thành lập công ty, cách
quản lý, cách tiếp thị, quảng cáo . . .
Dạo quanh thành phố San Diego, thấy những
chiếc xe bán tải với mấy người Mễ chở máy
móc đi cắt cỏ cho các sân vườn, Triển nói
công nhân của em đó, rồi kể tiếp:
Sau chuyến về Việt Nam gặp anh Bông và những
đứa trẻ trên núi Cấm, em quyết định chuyển
toàn bộ số tiền trong tài khoản về cho anh
ấy mua đất và cất nhà dưới chân núi. Nhưng
rồi em nghĩ, đó chỉ là việc khởi đầu cho một
tương lai dài đăng đẳng của mười một đứa bé.
Làm sao cho chúng học hành tới nơi tới chốn,
có một cuộc sống đàng hoàng, đó là khát vọng
lớn nhất của em. Em đem chuyện ấy bàn với ba
nuôi và ngỏ ý muốn lập một hội từ thiện. Ông
nói, trong mấy đứa con nuôi, ngay từ đầu tao
thấy mầy là đứa có tấm lòng, sống phải biết
vì quê hương, vì đồng bào mầy ạ. Mầy lập hội
từ thiện đi, tao đứng ra giúp đỡ, mầy quyên
góp được một đồng, tao cho thêm một đồng . .
. Em cũng không ngờ, năm đầu tiên em vận
động được 37 ngàn USD, ổng góp vô 37 ngàn
nữa. Vậy là, ngoài việc chu cấp cho mười một
đứa con nuôi, số tiền quỹ từ thiện hàng năm
em mang về giúp đỡ trẻ em nghèo các tỉnh.
Một hôm, ba nuôi gọi em đến, ông nói tao bây
giờ già rồi, không biết ra đi ngày nào, tao
đã nhờ luật sư làm di chúc, giao lại toàn bộ
tài sản và tiền bạc trong nhà băng cho mầy.
Em cầm tờ di chúc mà bủn rủn tay chân, số
tiền quá lớn, tài sản cũng quá lớn. Và lớn
lao hơn hết là tấm lòng của một người cha
không cùng màu da sắc tộc.
Lê Minh Triển tại Xéo Lá năm 2012
Tôi
hỏi Triển dự định thế nào với tờ di chúc ấy,
anh nói:
Mong muốn trước tiên của em là cho mười một
đứa con nuôi du học, tiếp theo, em sẽ về quê
xây thêm trại mồ côi theo cách làm của anh
Bông, tức là những đứa trẻ vô thừa nhận khi
vừa mới chào đời.
Võ Đắc Danh