14- TIN TƯỞNG 

 

Tin Tưởng là một trong hai tính cách giáo dục tích cực và theo t́nh của chỉ giáo nhân đối với thụ giáo nhân. Đối với thông cảm cũng là tính cách giáo dục tích cực và theo t́nh của chỉ giáo nhân, Tin Tưởng là tinh thần làm cho chỉ giáo nhân ở trong thụ giáo nhân, trong khi Thông Cảm là tinh thần làm cho chỉ giáo nhân ḥa hợp và nên một với thụ giáo nhân. Bởi thế, để có thể ở trong thụ giáo nhân bằng tinh thần Tin Tưởng chúng, chỉ giáo nhân phải làm sao vào được bên trong tinh thần của thụ giáo nhân trước đă. Và, chỉ giáo nhân không thể nào vào được nội tâm của thụ giáo nhân, nếu không có tinh thần công bằng và nhất trí, những tinh thần làm cho thụ giáo nhân chấp nhận và kính phục các ngài như thực sự và xứng đáng là chỉ giáo nhân của chúng. Như thế, Tin Tưởng là một tinh thần tiếp nối hai tinh thần công bằng và nhất trí, và là tinh thần tiên quyết cho tinh thần Thông Cảm, để rồi, cùng với tinh thần Thông Cảm, cả hai tinh thần này, Tin Tưởng và Thông Cảm,

sẽ làm cho thụ giáo nhân, từ chấp nhận và kính phục chỉ giáo nhân v́ các ngài công bằng và nhất trí, đến vâng phục và nên một với các ngài. Riêng Tin Tưởng là một tính cách giáo dục trực tiếp nhắm thẳng vào trọng tâm của công việc giáo dục, đó là sự ư thức và tinh thần tự lập của thụ giáo nhân. Một khi áp dụng tính cách giáo dục này đối với thụ giáo nhân, tức là chỉ giáo nhân coi thụ giáo nhân như trưởng thành rồi vậy, trưởng thành cả về ba phương diện khả năng, trách nhiệm và thiện chí. Hay, nói cách khác, chỉ giáo nhân:

* Tin Tưởng vào khả năng của thu giáo nhân;

* Tin Tưởng vào trách nhiệm của thụ giáo nhân; và,

* Tin Tưởng vào thiện chí của thụ giáo nhân.

 

 TIN TƯỞNG VÀO KHẢ NĂNG CỦA THỤ GIÁO NHÂN

 

 Tin Tưởng vào khả năng của thụ giáo nhân, tức là chỉ giáo nhân thừa nhận rằng thụ giáo nhân có thể thực hiện được những

ǵ họ đă bảo chúng làm hoặc tự chúng nghĩ ra làm, mà không cần chỉ bảo thêm hay huấn luyện nữa. Chính nhờ được chỉgiáo nhân tin tưởng như thế, thụ giáo nhân sẽ tỏ ra tự tin bằng những hành động sau đây:

-Thụ giáo nhân cảm thấy hăng hái để bắt tay làm những việc được chỉ định, dù khó khăn và khó nhọc đối với chúng đi nữa,

như nắm chắc thành công trong tay, và, dù có thất bại, thụ giáo nhân cũng không nản, v́ biết chắc rằng, chỉ giáo nhân vẫn không mất tin tưởng nơi ḿnh, trái lại, c̣n rút kinh nghiệm cho ḿnh và nâng đỡ ḿnh, cho đến khi làm được những ǵ phải

làm, cần làm, thích làm mới thôi.

-Thụ giáo nhân sẽ biết tự động tháo vát và xoay sở mỗi khi gặp những trở ngại và thử thách xuất hiện trên con đường hoạt

động, nếu cần, chúng sẽ vận dụng toàn lực để hy sinh và chịu đựng, cho đến khi đạt được những ǵ chúng phải là và phải làm theo như chỉ giáo nhân dặn bảo hay tự chúng nghĩ ra.

-Thụ giáo nhân sẽ chú ư và chuyên chăm trau dồi cũng như luyện tập những năng khiếu bẩm sinh cùng những khả năng thực dụng, nhất là khi được chỉ giáo nhân cho phép và khích lệ, để có thể trở thành một con người đa năng, đa dụng trong việc

phát triển bản thân, trả ơn gia đ́nh và phục vụ xă hội.

-Thụ giáo nhân sẵn sàng chấp nhận vạn sự khởi đầu nan, cố gắng lợi dụng cái khó bó cái khôn, kể cả thất bại là mẹ thành công, để không thành công cũng thành nhân, không anh hùng tạo thời thế th́ thời thế tạo anh hùng, v́ chúng đă ư thức được, qua giáo huấn và gương sáng của các bậc chỉ giáo nhân của chúng, rằng: Nếu phải đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai.

-v.v. và v.v. 

 

TIN TƯỞNG VÀO TRÁCH NHIỆM CỦA THỤ GIÁO NHÂN

 

Khả năng là để hoạt động, hay để làm việc cũng vậy. Thế nhưng, mỗi một hành động cũng như mọi việc làm của chung con người và của riêng thụ giáo nhân là những chủ thể có lư trí để suy xét, có ḷng muốn để chọn quyết, nhất là có lương tâm để phân biệt đúng sai và thiện ác, là những ǵ trực tiếp đến đời sống xă hội mà chúng đang sống, một xă hội được cấu kết với nhau bằng nhiều liên hệ và hoàn cảnh khác nhau bởi tất cả mọi cá nhân làm nên xă hội của chúng. Vậy, nếu chỉ giáo nhân

đă tin tưởng vào khả năng hoạt động của thụ giáo nhân, một cách gián tiếp, thụ giáo nhân cũng được chỉ giáo nhân tin tưởng vào trách nhiệm của thụ giáo nhân khi chúng thi hành những việc làm theo khả năng của chúng nữa. Được chỉ giáo nhân tin tưởng vào trách nhiệm của ḿnh như thế, thụ giáo nhân sẽ thoát khỏi những ép buộc, thôi thúc, dọa nạt, khiêu dụ v.v. bên ngoài, trái lại, hoàn toàn phấn khởi và thoải mái để tự sống động:

-Thụ huấn nhân sẽ tự động ư thức và dễ dàng biết đâu là việc ḿnh phải làm, đâu là lănh vực và phạm vi ḿnh được phép

vùng vẫy tự do, tuy nhiên, chúng vẫn có thể phân biệt được đâu là tư lợi phải hy sinh nếu cần, và đâu là công lư phải tôn trọng cũng như công ích phải hết ḿnh phục vụ.

-Thụ huấn nhân có thể tự giải quyết những vấn đề liên quan đến lương tâm của chúng, dựa vào những nguyên tắc và đường

lối chung chung mà chỉ giáo nhân vốn dạy bảo chúng, không cần sự hiện diện hay nhắc nhở của chỉ giáo nhân, bằng một phán đoán hoàn toàn chân thành và vô tư, nhỡ chẳng may có sai hay không được đúng ư của chỉ giáo nhân, chúng cũng sẵn sàng nhận lỗi và sửa sai.

-Thụ giáo nhân dần dần sẽ biết dung ḥa một cách khéo léo giữa quyền lợi mà chúng được hưởng với bổn phận mà chúng phải hoàn thành theo thân phận của chúng, mỗi khi phải chọn lựa giữa hơn và kém, lợi và thiệt đối với chúng, cho hợp lư, hợp t́nh và hợp cảnh của chúng.

-Thụ giáo nhân sẽ chu toàn mọi huấn lệnh và mệnh lệnh của chỉ giáo nhân, mọi bổn phận phải thi hành và mọi kỷ luật mà chúng phải giữ, một cách chủ động, tỉ mỉ, cẩn thận, và trọn hảo hết sức; nếu bị nhỡ nhàng hay lỡ lầm cách nào, chúng cũng không giấu diếm chỉ giáo nhân, trái lại, c̣n tự thú để được chỉ bảo và chịu sửa hạt, để cải tiến và thăng tiến hơn.

-v.v. và v.v.

 

 TIN TƯỞNG VÀO THIỆN CHÍ CỦA THỤ GIÁO NHÂN

 

 Không phải hễ có tài (khả năng) và ư thức (trách nhiệm) th́ hành động và việc làm của con người nói chung, và của thụ giáo nhân nói riêng, sẽ không có hoặc không c̣n những sơ hở, sơ xuất hay khiếm khuyết, là những ǵ mà chỉ có thiện chí của mỗi người mới có thể lấp đầy, có thể bù đắp cho trọn vẹn, hầu tiếp tục tạo được sự tin tưởng nơi người khác. Những hành động tỏ ra thiện chícủa thụ giáo nhân đáng được chỉ giáo nhân tin tưởng, đó là:

-Thụ giáo nhân sẽ không v́ tự ái, chẳng hạn, sợ chỉ giáo nhân chê bai hay mắng trách, tránh né những bàn hỏi cần thiết mà chúng chưa biết hay chưa rơ hoặc phải giải quyết với các ngài, để hậu qủa tai hại của việc chúng làm không xẩy ra cho chúng hay cho gia đ́nh cũng như cho những người chung quanh của chúng phải hứng chịu.

-Thụ giáo nhân sẽ không nản chí trước những thất bại về thể lư, như bệnh nạn, tật nguyền, về tâm lư, như ngu dốt, nông nổi, hay về luân lư, như khuyết điểm, lỗi lầm do chúng gây ra, trực tiếp hay không, cố t́nh hay vô ư, cho khỏi bị đè bẹp bởi những bất hạnh đó, ngược lại, chúng c̣n lợi dụng những sự khó và kém cỏi này như cái đà để nhẩy xa hơn trước.

-Thụ giáo nhân sẵn sàng lắng nghe và chấp nhận những sửa sai của mọi người, nhất là của chỉ giáo nhân, về những tội lỗi, hay lầm lẫn của ḿnh, kể cả những lời khuyên không buộc như là mệnh lệnh của các ngài, đến nỗi, dù những lời khuyên ấy có làm cho tính tự nhiên của chúng khó chịu, có qúa tầm hiểu biết khôn ngoan của chúng, có bắt chúng phải hy sinh quyền lợi và phải chịu khó đến đâu đi nữa, chúng vẫn cố gắng đem ra thực hiện, miễn là không phản lại với lương tâm của chúng.

-Thụ giáo nhân sẽ không sợ bị chê cười hay phê phán của bất kỳ ai, kể cả chỉ giáo nhân, về những việc lành theo lương tâm ngay chính và tấm ḷng chân thành của chúng, mà, chỉ v́ ích kỷ hay thành kiến họ đă sợ làm và tránh làm, lại c̣n cản người khác làm bao nhiêu có thể, kẻo chân tướng không ra ǵ của họ bị việc làm vô tư của chúng tố giác một cách xấu hổ.

-Thụ giáo nhân cũng không sợ bị chỉ giáo nhân trách móc hay nạt nộ khi cảm thấy, theo lương tâm của ḿnh, nếu không nói th́ áy náy, và theo công ích, nếu không làm th́ có hại, cần phải tŕnh bày với chỉ giáo nhân những ǵ có tính cách xây dựng, dù phải đụng chạm đến con người đáng kính của chỉ giáo nhân hay đến những ǵ liên hệ mật thiết với chỉ giáo nhân.

-Thụ giáo nhân sẽ chỉ trả lời một cách hết sức chân thành và khách quan về tất cả những sự kiện chúng biết, khi được chỉ

giáo nhân hỏi đến, về việc làm, công lênh hay lầm lỗi của chúng cũng như của bất cứ một ai, đặc biệt của những thụ giáo nhân khác như chúng, bất chấp mọi đe loi, dọa dẫm, dụ dỗ có thể làm sai lạc sự thật theo lương tâm của chúng.


Tóm lại,

Về phía thụ giáo nhân, muốn được chung mọi người, cách riêng chỉ giáo nhân tin tưởng ḿnh, chúng phải tỏ ra đảm đang về Khả Năng (tự lập), ư thức lănh Trách Nhiệm (chín chắn), và chân thành trong Thiện Chí (ngay thẳng) của ḿnh. C̣n, về phía chỉ giáo nhân, không phải chỉ có những thụ giáo nhân nào hội đủ những điều kiện như thế mới tỏ ra tin tưởng chúng, bằng không, chỉ tin tưởng chúng một phần nào thôi hay không nên tin tưởng chúng.


Thế nhưng,

Chính v́ sự bất toàn của những thụ giáo nhân này mới cần đến sự tin tưởng của chỉ giáo nhân hơn bao giờ hết và hơn ai hết. Thật vậy, những đứa coi như tốt lành đối với chỉ giáo nhân hay hợp với chỉ giáo nhân, chúng đáng được chỉ giáo nhân tin tưởng là phải. Ở trong trường hợp của những thụ giáo nhân c̣n yếu kém những điều kiện để được hoàn toàn tin tưởng bởi chỉ giáo nhân này, sự tin tưởng của chỉ giáo nhân lại chính là một phương thế cần thiết, một điều kiện xứng hợp, một kích thích mạnh mẽ và một môi trường thuận lợi nhất để thụ giáo nhân phát triển và trưởng thành. Bằng không, càng sống trong sự coi thường khả năng của ḿnh bởi chỉ giáo nhân, càng sống với sự canh chừng trách nhiệm của ḿnh bởi các ngài, và càng sống dưới sự nghi ngờ thiện chí của ḿnh bởi họ, thụ giáo nhân sẽ chẳng khác ǵ con chim bị nhốt trong lồng, dù được yêu thương, chiều chuộng, ăn ngon, ve vuốt, ngắm nghía bởi chỉ giáo nhân, chúng cũng không thể nào sống đúng với bản tính bay nhẩy của chúng. Như thế, cuộc đời của chúng hoàn toàn mất ư nghĩa, một cuộc đời chỉ sống để mua vui cho người hơn là để được sống là ḿnh và sống cho ḿnh, theo như quyền lợi của chúng và như mục đích của công việc giáo dục (mà chỉ giáo nhân chỉ là thừa tác viên), đó là sự hoàn toàn tự lập và độc lập của thụ giáo nhân.