4.- MỘT
CON NGƯỜI THÀNH NIÊN
Thời kỳ thành
niên của con người được bắt đầu
từ khi con người có đủ hàm răng ba mươi
hai chiếc, tức khoảng 18 tuổi, và kéo dài cũng khoảng
6 năm, cho đến khi con người lên 24 tuổi, tức
tuổi mà con người không c̣n tăng trưởng theo
chiều
cao được nữa,
tuổi đánh dấu sự hoàn toàn phát triển về thể
lư của con người, cũng là tuổi hoàn tất học
vấn trước khi bước
vào đời để
lập thân và lập nghiệp, tuổi sửa soạn bước
sang một thế hệ khác để có thể trở thành
những bậc làm cha làm mẹ có đủ bản lănh
trong việc dưỡng dục con cái do ḿnh sinh ra.
Thế là, đến
tuổi thành niên, con người đă trải qua ba thời
kỳ, thời kỳ ấu nhi để phát triển ngoại
quan, thời kỳ thiếu nhi để
phát triển về nội
quan, và thời kỳ thiếu niên để phát triển về
tâm trí. Giờ đây, bước vào thời kỳ cuối
cùng của một thụ
giáo nhân, thời kỳ
thành niên, thời kỳ để con người phát triển
về lương tri.
Vào thời kỳ này,
con người tỏ ra hiểu biết nhiều hơn,
qua học thức nơi học đường, và nhất
là qua bao nhiêu là kinh nghiệm bản thân học được
từ thời kỳ thiếu niên. Tất cả những
kinh nghiệm bản thân này mới chính là những hành trang
mà con người tự sửa soạn lấy cho ḿnh để
vào đời.
Chúng chính là những ư
thức mà con người có được về cuộc đời
sống cũng như về bản thân ḿnh. Về cuộc
đời sống, con người bước vào thời
kỳ thành niên, không nhiều th́ ít, có được những
cái nh́n trung thực hơn về bản chất thực hư
nơi sự vật, lợi hại nơi sự việc, đúng
sai nơi sự kiện, và tốt xấu nơi người
đời. Về bản thân ḿnh, sau khi trải qua ba giai đoạn
phát triển trước đó, con người, không sâu xa
th́ thực tế, đă có được những cảm
nghiệm thế nào là con người của ḿnh, nhất là
về bản chất và khả năng của nó.Tất cả
những nhận thức về cuộc đời sống
cũng như về chính bản thân ḿnh như thế, khi được
đem vào thời kỳ thành niên, tức giai đoạn phát
triển lương tri, b́nh thường mà nói, chúng sẽ
trở thành những chủ trương của con người,
bằng không, nếu là hậu qủa của những qúa khích,
chúng sẽ là những thành kiến khó ḷng mà thay đổi được.
Để rồi, dù dưới h́nh thức nào đi nữa,
chủ trương hay thành kiến, chúng cũng tiêu biểu
cho tinh thần của con người lúc bấy giờ, v́
sự chi phối của nó đối với tâm tưởng,
ngôn từ, hành vi cũng như phản ứng phát xuất
từ con người.
Thật vậy, sự
sống tinh thần của con người trong thời kỳ
thành niên bấy giờ là những ư thức về ḿnh cũng
như về đời mà khi tác hành chúng được nhận
diện như những chủ trương của họ.
Nó điều hành mọi sinh hoạt của con người,
như bản năng trong thời kỳ ấu nhi, cảm
giác trong thời kỳ thiếu nhi, và cảm t́nh trong thời
kỳ thiếu niên. Chính nhờ những ư thức tâm huyết
đó, con người trở thành khôn ngoan hơn trong phán đoán
cũng như trong hành động, không mù quáng như bản
năng, không ṭ ṃ như cảm giác, không mơ mộng như
cảm t́nh nữa. Tuy nhiên, không phải v́ thế mà con người
có thể tránh được tính cách chủ quan cố hữu
của những ǵ mà họ đă ư thức và chủ trương.
Tính cách chủ quan này của con người, giống như
cảm giác và cảm t́nh, đă tố cáo bản chất tự
ái của con người dưới một thể thức
khác, thế thôi.
Tự ái của con
người chẳng qua là xu hướng tự nhiên t́m ḿnh
của con người. T́m ḿnh để khám phá ra ḿnh, t́m ḿnh
để bảo vệ ḿnh, t́m ḿnh để phát triển
ḿnh. Tuy nhiên, trên thực tế, v́ không thể nào không yêu ḿnh,
tức không thể nào không tự ái, để có thể nhận
ra ḿnh, và từ đó, làm cho con người của ḿnh nẩy
nở đến tầm vóc viên măn của nó, mà con người
có thể đi đến chỗ thái qúa nếu, v́ coi trọng
ḿnh mà lại coi thường tha nhân cũng là một con
người như ḿnh, cũng đáng qúi, đáng trọng
như ḿnh. Nếu như ḿnh không muốn ai đối xử
với ḿnh một cách bất công, đến của cải,
danh gía, chức vị, máu mủ v.v. của ḿnh, chỉ v́ tư
lợi của họ thế nào, th́, đối lại, ḿnh
cũng phải đối xử với tha nhân một cách
công bằng như vậy. Đó là nguyên tắc luân lư, là đạo
làm người của tất cả và cho tất cả mọi
tạo vật có lương tri.
Tạo vật duy nhất
có lương tri đó, không ai khác hơn là chính con người.
Và, kể từ lúc họ bắt đầu là người
trong ḷng của thai mẫu, nghiă là, kể từ lúc họ hội
đủ yếu tố hồn và xác để chính thức
là người, họ đă có lương tri. Thế nhưng,
như trí khôn là tài năng của linh hồn và cùng với
linh hồn được phú bẩm vào trong con người,
chỉ mới hiện diện nơi con người chứ
chưa hiện thực qua con người nếu thân xác của
con người chưa đủ điều kiện tương
xứng với nó thế nào, lương tri trong con người
cũng thế. Nó chỉ hiện diện nơi con người
là loài có tâm linh, và chỉ hiện thực qua con người
khi con người biết sử dụng trí khôn, nghiă là, khi
con người có thể nhờ trí khôn để nhận
biết nó, và nó cũng có thể nói với con người
qua trí khôn của con người.Tuy nhiên, như thế không
có nghĩa là trí khôn của con người càng thông minh trong
việc nhận thức, và càng hiểu biết nhờ việc
học hỏi, con người càng có khả năng để
nhận ra lương tri của họ, và lương tri của
họ càng hiện thực tỏ tường hơn qua họ.
Nói như thế, chẳng khác ǵ cho rằng khi con người
c̣n đang ở trong thời kỳ tiền sử, thời
kỳ ăn lông ở lỗ, thời kỳ phôi thai lạc
hậu, th́ con người chưa có lương tri, hay lương
tri chưa hoạt động nơi con người. Phải,
lư luận như thế cũng không phải là hoàn toàn thiếu
bằng cớ. Bằng cớ là, nếu bấy giờ con
người có lương tri, tại sao họ thường
ăn ở trần truồng
như không biết xấu
hổ là ǵ, hay ăn thịt nhau như thú vật sống
theo luật rừng, mạnh được yếu thua, hoặc
giết nhau như giết một con vật để cúng
tế thần linh v.v. Ngược lại, c̣n một bằng
cớ nữa là, một khi con người càng trở nên văn
minh, họ càng có những luật lệ và cách cư xử
với nhau một cách xứng hợp với phẩm cách
con người. Chẳng hạn, về phương diện
tiêu cực,
không được đánh
vợ, đánh con cũng là người cao qúi đáng tôn trọng
như ḿnh, dù họ có lỗi lầm đến thế nào đi
nữa; ngược
lại, về phương
diện tích cực, thậm chí được cả phá
thai để bảo vệ quyền chọn lựa (right
of choice) tự do mà họ cho là tối thượng của
ḿnh, và ly dị để bảo vệ đời sống
hạnh phúc bất khả xâm phạm của ḿnh v.v.
Từ đó, phải
chăng con người tiền sử là h́nh ảnh của
con người c̣n trong thời kỳ ấu nhi (thời kỳ
vô lư luận), chưa biết sử dụng trí khôn, chỉ
sống động theo bản năng mù quáng; trái lại,
con người hiện đại là h́nh ảnh của con
người đă trải qua các thời kỳ thiếu nhi
(thời kỳ tiền lư luận) cũng như thời kỳ
thiếu niên (thời kỳ lư luận) và đang ở trong
thời kỳ thành niên (thời kỳ theo lư luận)?
Thật sự, theo lư
thuyết, lương tri của con người có lệ
thuộc vào trí khôn của con người để hiện
thực qua con người bằng những hoạt động
theo bản chất lương thiện của ḿnh. Thế
nhưng, trên thực hành, chỉ khi nào trí khôn của con người
lệ thuộc vào lương tri, con người của họ
mới có thể trở thành con người có lương
tri, con người biết suy nghĩ, con người lương
thiện mà thôi. Bằng không, nếu tất cả những
ǵ được kết luận từ những phán đoán
theo khả năng lư luận tự nhiên của họ mà họ
cho là những tiêu chuẩn tuyệt đối nhất, chân
thật nhất, đúng lư nhất, đáng theo nhất của
ḿnh, th́ chưa chắc đă làm và sẽ làm cho họ được
hoàn toàn b́nh an và hạnh phúc như ḷng họ mong ước
và đời họ hằng theo đuổi cho bằng được!
Thế nên, v́ có ḿnh mà không do ḿnh, cuộc đời của
con người chỉ là một cuộc t́m kiếm trong ḿnh
những ǵ chân thật, cho ḿnh những ǵ thiện hảo và
nơi ḿnh những ǵ mỹ lệ, cho đến khi trở
thành một con người thành toàn để được
sinh vào
đời.Và, thời
điểm mà con người được sinh vào đời
là lúc nào? Nếu không phải là lúc con người họ ra
khỏi chính bản thân
ḿnh để sống
với nhân gian và cho nhân gian. Nhưng, con người làm sao
có thể ra khỏi ḿnh để sống với nhân gian và
cho nhân gian, nếu con người không thực hiện một
cách trọn hảo và trọn đời đạo làm người,
đó là yêu thương tha nhân như chính bản thân ḿnh. Lại
nữa, con người chỉ có thể thương người
như thể thương thân như thế, một khi họ,
về mặt tiêu cực, tránh tất cả những ǵ gây
ra cho người khác mà họ không muốn bị người
khác gây ra cho ḿnh, và, về mặt tích cực, làm tất cả
cho người khác những ǵ mà họ muốn người
khác làm cho ḿnh. Nguyên tắc luân lư căn bản và khẩn
thiết để làm người
trong nhân gian như thế,
(chứ không phải chỉ làm người trong không gian và
thời gian này), chẳng qua là một thực nghiệm tự
nhiên của bản thân khi biết sử dụng trí khôn, hơn
là một kết tinh từ những lư luận cao siêu của
trí khôn.
Thế rồi, càng sống
theo nguyên tắc phổ quát này, theo thực nghiệm rất
nhân bản này, con người càng tỏ ra ḿnh là người
hơn ai hết, càng trở thành một con người quốc
tế, sống với ai cũng được, sống ở
đâu cũng được, sống vào thời nào cũng
được. Như thế, không phải là con người
đă thực sự vào đời hay sao? Và thời kỳ
thành niên này của con người không phải là giai đoạn
mở màn hay sao, giai đoạn phát triển lương tri
của họ, giai đoạn nhận ra chỗ đứng
cùng thế đứng của ḿnh trong nhân gian, nhất là mỗi
khi họ đứng sai chỗ và sai thế phải đứng
của ḿnh, hay v́ ḿnh hoặc v́ người mà họ bị
xô lấn ra khỏi chỗ đứng và thế đứng
của họ. Chỗ đứng của con người
trong nhân gian, đó là nhân phẩm của họ, và thế đứng
của họ trong
nhân gian chính là nhân cách
của họ. Và cả hai yếu tố nhân phẩm và nhân
cách này tạo nên con người hiện sinh của họ,
một con người được h́nh thành từ con người
bẩm sinh non nớt mới là người có nhân tính để
nằm và nhân vị để ngồi, hơn là làm người
khôn lớn với nhân phẩm để đứng và nhân
cách để đi.
Khi vào đời là
con người vào đời với con người hiện
sinh này. Và, con người hiện sinh này vào đời có b́nh
thường và lành mạnh hay không, là do cuộc đời
như ḷng dạ đă cưu mang nó và phương cách giáo dục
như tiến tŕnh sinh ra nó. Thật ra, con người có thể
vào đời sau khi măn thời thiếu niên, tức bắt
đầu thời thành niên, mặc dù hơi sinh non một
chút, song vẫn không sợ con người được
sinh ra đó sẽ là một đứa trẻ dị h́nh
hay dị tướng, không phải là người hay chưa
thành người. Tuy nhiên, để chín chắn và già giặn
hơn theo luật tự nhiên, con người cần được
sinh ra vào đúng thời điểm của nó. Bởi v́,
giai đoạn cuối cùng trước khi được
vào đời là giai đoạn làm cho con người, như
một bào thai, cứng cát và sung sức hơn để nhập
cuộc đời. Giai đoạn cuối cùng để làm
cho con người bẩm sinh được cứng cát và
sung sức hơn để vào đời với một
con người hiện sinh thành toàn, đó là thời kỳ
thành niên của con người.
Thời kỳ thành
niên này là để cho con người, với tâm trí đă được
phát triển từ thời kỳ thiếu niên, có thể thực
nghiệm hơn về ḿnh, để hoàn toàn là ḿnh trước
khi được sinh vào đời để sống với
người và cho người. Để rồi, trong t́nh yêu
thương người như chính ḿnh, con người được
nên một với mọi người như một thân thể,
nhờ đó, từ họ, hoa trái thiện hảo là tự
do, an b́nh, và phúc đức sẽ được sinh vào đời.