8.- CON NGƯỜI
LƯƠNG THIỆN
Thế là,
Con người đă
được giáo huấn và đă trải qua ba giai đoạn
phát triển đầu của đời sống con người,
trước khi bước vào giai đoạn phát triển
cuối cùng, giai đoạn phát triển kết thúc, tức
giai đoạn thành niên để Vào Đời.
Giai đoạn phát
triển thứ nhất, một giai đoạn phát
triển về ngoại quan, con người ấu nhi có
những khuynh hướng tự nhiên như đ̣i hỏi,
tham lam, nũng nịu, và ỷ nại, nên cần phải được
giáo dục làm sao cho chúng biết sống dễ dậy và điều
độ, để họ có thể Làm Người
Tự Lập. Giai đoạn phát triển thứ hai, một
giai đoạn phát triển về nội quan, con người
thiếu nhi có những khuynh hướng tự nhiên như
hiếu thắng, ẩu tả, cẩu thả, và vị
kỷ, nên cần phải được giáo dục làm sao
cho họ biết sống thận trọng và đại đảm,
để họ có thể Làm Người Khắc Phục.
Giai đoạn phát
triển thứ ba, một giai đoạn phát triển
về tâm trí, con người thiếu niên có những khuynh hướng
tự nhiên như chủ quan, bồng bột, mơ mộng,
và quanh quéo, nên cần phải được giáo dục làm
sao cho họ biết sống chín chắn và chân thành, để
họ có thể Làm Người Khôn Ngoan.
Và,
Giai đoạn phát
triển thứ bốn, tức giai đoạn phát
triển cuối cùng, một giai đoạn phát triển
về lương tri, con người thành niên có những
khuynh hướng tự nhiên như tự tin, tự tôn,
tự ái và tự măn, nên cũng cần phải được
giáo dục làm sao cho họ biết sống thông cảm và công
bằng, để họ có thể Làm Người Lương
Thiện.
Thật vậy,
Sau khi đă trải
qua và đă đạt được, phần nào hay
tất cả, những thành qủa của việc giáo dục
để Làm Người Tự Lập, Khắc Phục và
Khôn Ngoan, bấy giờ, không nhiều th́ ít, không minh nhiên th́
mặc nhiên, con người tự nhiên sẽ có những
khuynh hướng như tự tin, tự tôn, tự ái và
tự măn. Những khuynh hướng này thường thường
lộ mặt vào những trường hợp khi con người
thành niên thấy, gặp, hay sống với những con người
cùng lứa tuổi với ḿnh, hay lớn hơn ḿnh, mà
lại không biết sống như ḿnh. Và, đối với
những con người nhỏ tuổi hơn ḿnh,
những con người c̣n thuộc về các thời
kỳ phát triển trước đó, dù đă trải qua
những khổ luyện khi c̣n ở trong những thời
kỳ này, con người thành niên cũng chưa chắc đă
có thể hoàn toàn thông cảm được những tâm
tính không giống ai, những sơ xuất, những
bất toàn của thành phần non nớt hơn ḿnh đấy.
Để rồi, từ đó, con người thành niên khó
ḷng mà tránh được những thành kiến, những
yên trí, những tâm trạng khinh người, những thái độ
bất kính hay bất xứng đối với tha nhân,
nhất là, khi chính con người thành niên lại bị
những con người có vẻ kém cỏi về nhân cách hơn
ḿnh ấy đụng chạm hoặc xúc phạm đến
con người biết tự trọng của chúng.
Thật ra, khuynh hướng
tự tin, tự tôn, tự ái và tự măn này không phải
chỉ hiện diện nơi và ra mặt qua những con người
thành niên đă được giáo dục kỹ lưỡng
và đă gặt được thành tích bởi đó mà ra để
có thể hănh diện với đời. Chúng c̣n có mặt nơi
cả những con người thành niên khác, dù họ không đạt
được những tinh thần làm người căn
bản và cần thiết ở những thời kỳ trước
đó, thậm chí, kể cả trường hợp họ
không được giáo dục ǵ, đă trở thành một
con người kể như hư hỏng. Bởi v́,
hễ ở vào lứa tuổi này, lứa tuổi được
luật pháp công nhận đă thành nhân, có quyền tự
quyết (thường ở vào tuổi 18) và quyền công
dân (thường ở vào tuổi 21), thêm vào đó, nếu
lại được dịp học xong bậc trung
học (thường ở vào tuổi 19), trong khi
chúng ra trường
nhiều người nhỏ khác c̣n phải ở lại
học đường, con người hầu như đều
có những tâm trạng này, tâm trạng cảm thấy ḿnh đă
lớn, đă khôn, không c̣n phải lệ thuộc như trước,
đă có thế đứng trong xă hội, được cộng
đồng công nhận và tôn trọng, đă có thể ra đời
lập gia đ́nh và lập nghiệp như mọi người,
v.v. Để rồi, từ đấy cho đến
hết cuộc đời của họ, (chứ không
phải là cho đến khi qua hết thời kỳ thành
niên ở tuổi 24 này mà thôi), những khuynh hướng
tự nhiên có bản chất làm người tự lập
ấy, sau khi được cưu mang từ và qua các thời
kỳ trước, đă trở thành như những h́nh
hài, tạo nên phẩm cách làm người của chúng để
sửa soạn cho chúng Vào Đời.
Về khuynh hướng
tự tin, thật ra, tự nó, không phải là một khuynh
hướng xấu. Trái lại, nó là một khuynh hướng
rất cần thiết và tốt lành, nếu con người
không thái qúa. Nó cần thiết đối với con người
ở chỗ, nhờ nó, con người mới tỏ ra
thực sự biết ḿnh, mới hoàn toàn là ḿnh, dù chủ
quan đi nữa, từ đó, mới dạn dĩ trong
thái độ, và mới mạnh mẽ trong hành động.
Nó tốt lành ở chỗ, nhờ nó, con người mới
dám thực hiện những ǵ phải làm, cần làm và thích
làm mà không lo thất bại, không sợ thử thách, không
ngại gian khổ. Nó chỉ không tốt khi con người
thái quá mà thôi, ở chỗ, họ cứ tưởng ḿnh và
cho ḿnh có thể làm được mọi sự, tránh được
mọi sự và thắng được mọi sự một
cách tự nhiên theo khả năng khôn ngoan, khắc phục
và tự chủ của ḿnh, không cần một sự trợ
giúp nào khác, dù tự nhiên cũng như siêu nhiên.
Về khuynh hướng
tự cao, theo bản chất, nó là kết qủa của
khuynh hướng tự tin, dù là tự tin một cách chính đáng
trong phạm vi của ḿnh. V́ thấy ḿnh có thể làm được,
tránh được và chịu được điều
này điều kia, nhất là những điều mà người
khác không làm, không tránh, không chịu được như
họ, họ khó ḷng mà thoát được tâm trạng
tự hào với ḿnh và tự cao với tha nhân. Tự hào với
ḿnh, c̣n chấp nhận được; tự cao với
tha nhân, không thể chấp nhận tí nào. Bởi v́, từ
tự cao, con người sẽ đâm ra coi thường
người khác, thậm chí, khinh bỉ người ta. Do đó,
không thể chấp nhận khuynh hướng tự cao này
nơi con người thành niên, v́, tự cao như thế
là họ đă xúc phạm đến người khác ngay ở
trong thâm tâm, điều mà họ không bao giờ muốn người
khác làm cho ḿnh như vậy. Mà, để thực sự làm
người, một con người phổ thông, một con
người chân chính, họ phải là một con người
biết thông cảm với mọi người.
Về khuynh hướng
tự ái, thật ra, nó đă có nơi con người từ
bẩm sinh, song dưới các h́nh thức khác nhau tùy theo mỗi
thời kỳ phát triển, như tự ái theo bản
năng ở thời kỳ ấu nhi, tự ái theo cảm
giác ở thời kỳ thiếu nhi, và tự ái theo cảm
t́nh ở thời kỳ thiếu niên. Bởi v́, tự ái
chẳng qua là khuynh hướng t́m ḿnh trong mọi sự, để,
tự vệ về mặt tiêu cực và phát triển
về mặt tích cực toàn thể con người của
ḿnh. Do đó, tự ái là một khuynh hướng không
thể thiếu nơi con người và cho con người,
bằng không, con người sẽ là một kẻ,
hoặc cù lần chẳng biết ǵ như người
chậm trí khôn hạng nặng, hay điên điên khùng khùng
như người mất trí, nếu không, họ phải
là một thánh nhân dị chúng nhân, đă siêu thoát khỏi
những tự ái thường t́nh mà mọi người
bị chi phối khi hành động và phản ứng. Tuy
tự ái cần thiết cho con người, nhưng,
nếu không biết làm chủ nó, nó sẽ trỏ thành một
nữ ác thần, có thẩm quyền sai khiến con người
làm mọi sự thỏa măn nó một cách mù quáng và đê hèn
nhất, kể cả những việc làm bất công,
thất nhân ác đức nhất.
Về khuynh hướng
tự măn, nó cũng là một trong số những đứa
con cháu của tự ái như tự tin và tự cao. Tuy
nhiên, nó có tính cách kín đáo và hiền dịu hơn, v́ nó
chỉ quanh quẩn trong thâm tâm của con người mà thôi.
Nó được khuynh hướng tự tin sinh đôi ra cùng
với khuynh hướng tự cao. Nói cách khác, nó là mặt
ch́m và tự cao là mặt
nổi của khuynh
hướng tự tin thái quá. V́ tự tin thái quá, con người
đâm ra tự măn, với những cảm tưởng hănh
diện, những cảm t́nh vui thú, măn nguyện khi thấy
ḿnh tài giỏi, khôn lanh, tháo vát, thành công, được mộ
mến v.v. Thật ra, những t́nh cảm hănh diện, vui
thú và măn nguyện của con người khi thành công nhờ
tự tin đó, chẳng khác ǵ như cảm giác ăn mà
thấy ngon vậy, tự nó, không có ǵ là xấu. Tuy nhiên, một
khi v́ tự măn mà con người cảm thấy đủ
rồi, không cần phải cố gắng nữa, hay
tỏ ra hăng say chiến thắng đến khinh thường
địch thủ để bị quật lại một
cách đớn đau, hoặc quay ra tự cao và coi rẻ
kẻ khác, th́ kể như nó đă trở thành một đối
tượng cần phải quan tâm trong việc giáo dục
rồi đó. Như thế, đối với các khuynh hướng
tự nhiên của con người trong thời kỳ thành
niên này, là tự tin, tự cao, tự ái và tự măn,
ngoại trừ khuynh hướng tự cao kể như không
chấp nhận được, c̣n các khuynh hướng
kia, tốt hay xấu, lợi hay hại, đều do con người
biết lợi dụng và sử dụng chúng hay không. Do đó,
nếu con người thành niên, ngay từ những giai đoạn
phát triển trước, được giáo dục kỹ
lưỡng và đă tập được hoàn toàn, hầu
hết hay phần nào những tinh thần khôn ngoan của
thời kỳ thiếu niên, khắc phục của thời
kỳ thiếu nhi, và tự chủ của thời kỳ
ấu nhi, th́ có lợi biết bao cho thời kỳ thành
niên này, trong việc hoàn hảo hoá những khuynh hướng
tự nhiên rất ư là thiết yếu để làm người,
đối với một thành phần sắp sửa bước
vào đời như họ.Để bước vào đời
với một con người được coi là hoàn toàn
thành nhân, xứng đáng Làm Người, được người
đời mến phục, con người thành niên cần
phải hoàn tất hai đức tính cuối cùng của
giai đoạn phát triển lương tri của ḿnh, đó
là đức tính công bằng và thông cảm với mọi
người theo tinh thần lương thiện tốt
lành của một con người. Về công bằng,
phải giáo dục cho con người thành niên biết tôn
trọng người khác cũng như chính bản thân ḿnh,
không làm ǵ cho ai khi không muốn họ làm cho ḿnh điều
ấy, trái lại, để ư làm cho người ta
những ǵ ḿnh cũng mong muốn được người
ta làm cho ḿnh. Về thông cảm, phải giáo dục cho con người
thành niên biết luôn luôn đứng về phía tha nhân mà xét đoán,
mà đối xử cho hợp t́nh và hợp cảnh,
nhất là,
khi quyền lợi
hay phạm vi của chúng bị người khác xâm
phạm, biết tự bỏ qua cho người ta một
cách rộng lượng mà không cần họ đến xin
lỗi hay đền bù cho ḿnh, dù họ biết hay không
biết lỗi của họ đối với ḿnh, y như
ḿnh cũng muốn được
người ta đối
xử với ḿnh khi ḿnh vô t́nh hay chủ ư làm phiền đến
họ, mà v́ không biết hay tự ái không muốn đến
xin lỗi họ. Và, một khi con người thành niên
biết công bằng và thông cảm với tha nhân, những
khuynh hướng tự tin, tự cao, tự ái và tự măn
của chúng sẽ hóa thành những nhân viên đắc
lực nhất cho tinh thần phục vụ công ích của
chúng, khi chúng bước vào
đời và
sống với đời. Nhờ biết công bằng và thông
cảm với tha nhân bằng một t́nh yêu thương
nhau như bản thân ḿnh như thế, cuộc sống hôn
nhân của chúng, nếu có, sẽ được hoàn toàn
bảo đảm và sung măn hạnh phúc, để rồi,
từ t́nh yêu và hạnh phúc này của họ, những đứa
con lương thiện cho xă hội loài người sẽ
theo nhau vào đời.
Ở những giai đoạn
phát triển trước, để giáo dục và luyện
tập những tinh thần thiết yếu cho cuộc
sống làm người, chỉ giáo nhân cũng như thụ
giáo nhân cần phải dùng đến những phương
tiện bên ngoài, chẳng hạn, giữ điều độ
trong việc thực hành tinh thần tự chủ ở thời
kỳ ấu nhi, giữ kỷ luật trong việc
thực hành tinh thần khắc phục ở thời
kỳ thiếu nhi, và sống thực tế trong việc
thực hành tinh thần khôn ngoan ở thời kỳ
thiếu niên. C̣n ở giai đoạn phát triển lương
tri này, giai đoạn mà vai tṛ của chỉ giáo nhân đóng
vai cố vấn hơn là bảo hộ thụ giáo nhân như
trước kia, giai đoạn ma thụ giáo nhân được
các nhà bảo hộ tự nhường lại quyền độc
lập cho, hay, theo luật pháp, chúng đă giành lại
quyền độc lập từ tay người bảo hộ
của ḿnh để có thể tự trị đất nước
và dân tộc của ḿnh, là cuộc đời và con người
của một kẻ thành niên, nếu muốn thực hành
tinh thần lương thiện xứng với tuổi đời
của ḿnh, chúng phải biết yêu thương tha nhân như
bản thân ḿnh. Tức là, trong việc thực hành
tinh thần lương
tri này, con người thụ giáo nhân không cần phải dùng
đến những nguồn viện trợ ngoại quốc
hay những đồ nhập cảng là những phương
tiện bề ngoài, cho bằng dùng đến chính nguồn
tài nguyên nội hóa của ḿnh là t́nh yêu thương
thật dồi dào
trong nội tâm. Thật vậy, chỉ có con người đă
có khả năng tự lập và chủ quyền độc
lập như con người thành niên mới có quyền
khai thác nguồn tài nguyên nội tâm vô cùng qúi hóa và hầu như
bất tận này của ḿnh mà thôi. Chính nguồn tài nguyên
phong phú là t́nh yêu này, nếu được tận dụng
và sử dụng thích đáng, chẳng mấy chốc, con
người của thụ giáo nhân thành niên sẽ như một
dân giầu và cuộc đời của chúng sẽ như một
nước mạnh. Đúng thế, t́nh yêu thương
trong tất
cả mọi người
và nơi mỗi người chính là một bản tính
tốt lành và hướng ngoại được phú
bẩm cho con người khi được sinh vào đời.
Nó ở trong con người như một hạt giống
cần phải được mọc lên hết cỡ
vĩ đại theo bản chất bẩm sinh viên măn và
bất tận của nó. Tuy nhiên, nó có thể nẩy
mầm, đâm rễ và thành cây để sinh hoa kết qủa
phong phú hay không, là do, thân xác của con người có
phải là một mảnh đất tốt cho nó hay không,
và linh hồn của con người có phải là một
bầu trời đẹp, với đầy đủ ánh
sáng lư trí và nhiệt độ ư chí, cho nó hay không. Bằng không,
một là, nó sẽ lép, không bao giờ mọc lên, v́ t́nh
trạng tâm trí bất b́nh thường của con người;
hai là, có mọc lên, cũng sẽ bị những con sâu
vị kỷ cắn chết rất sớm; ba là, có thành cây
um tùm hoa lá, nhưng không thể kết qủa, v́ trong
nhựa của nó thiếu mất chất quảng đại.
Do đó, công việc duy nhất của con người c̣n ở
vào thời kỳ thành niên, cũng như trong suốt
cả cuộc đời của họ, là, làm sao cho
hạt giống t́nh yêu nơi ḿnh phát triển và sinh hoa
kết qủa phong phú mà thôi. Và, để làm cho nó phát
triển, con người chỉ cần tự tạo cho
ḿnh
trở thành môi trường
thích hợp và thuận lợi cho nó, thế thôi.Trên thực
tế, theo kinh nghiệm, muốn làm cho những mầm
mống bẩm sinh trong ḿnh phát triển, như lư trí hay t́nh
yêu của ḿnh, con người cần phải đem nó ra
thực hành. Chẳng hạn, nếu
không chịu học
hành, trí khôn của con người sẽ không bao giờ thông
thái được, dù tự nhiên nó có thông minh đến
thế nào đi nữa. Hoặc, nếu không chịu
luyện tập khả năng ngoại ngữ bằng cách
chịu khó đọc sách, viết lách và nhất là đàm
thoại cũng như sống với người
ngoại quốc, th́, dù họ có học thuộc hết
cả một cuốn tự điển của ngôn ngữ
mà họ đang học và thích học đi nữa, cũng
chẳng bao giờ họ sẽ thông thạo và ḥa đồng
được với người ngoại quốc, v́
họ không hiểu người và người không hiểu
họ. Cũng vậy, đối với t́nh yêu, nếu không
t́m dịp thực hành nó, nó sẽ chẳng bao giờ
thể hiện được tính chất tuyệt vời
của nó, bao la hơn không gian, cao cả hơn sự
sống, mạnh mẽ hơn sự chết, bất
tận hơn thời gian, nơi con tim và
cuộc đời của
con người thành niên. Để thực thi t́nh yêu
tiềm ẩn trong ḷng của ḿnh, con người thụ
giáo nhân thành niên chỉ cần, về phía ḿnh, chú ư đến
tha nhân; tránh mọi sự, dù nhỏ mọn mấy đi
nữa, vô t́nh hay cố ư làm phiền người khác,
hoặc chỉ có lợi cho ḿnh mà lại tác hại cho người;
tự nguyện hy sinh giúp đỡ người ta mỗi
khi có thể; nếu người ta có điều ǵ không hợp
với ḿnh hoặc làm phiền đến ḿnh, hăy tự thông
cảm và quảng đại bỏ qua cho họ v.v.
Phải, chính t́nh yêu
bỏ ḿnh và bung ḿnh, lên trên bản thân, ra ngoài bản ngă, như
thế, của con người thành niên, sẽ là đường
lối duy nhất, chính thức, lành mạnh nhất,
tốt lành nhất, để đưa họ, đă
thực sự thành nhân, Vào Đời.