4
THIÊN CHÚA
NHẬP THỂ
- CON NGƯỜI
THẦN LINH
N |
ếu trọng tâm của
học thuyết về xă hội của Kitô Giáo không
phải là chủ nghĩa duy nhân bản như khuynh hướng
nhân quyền tự quyết hiện nay, mà là chủ
nghĩa nhân bản đối thần, th́ Mầu Nhiệm
Thiên Chúa Nhập Thể Làm Người Nơi Đức
Giêsu Kitô chính là cốt lơi của chủ nghĩa nhân bản
đối thần này. Bởi v́, Thiên Chúa Nhập Thể
nghĩa là ǵ, nếu không phải “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”
(Mt 1:23), “Các con hăy nên trọn lành như
Cha trên trời của các con là Đấng trọn lành” (Mt 5:48), “Thày đă làm thế
nào các con cũng hăy làm như vậy” (Jn 13:15), và “Cha trên trời sẽ ban
Thánh Thần cho những ai kêu xin Ngài” (Mt 10:20).
THIÊN CHÚA NHẬP THỂ NGHĨA
LÀ
“THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA”
T |
ại sao Thiên Chúa không mặc
lấy bản tính thiêng liêng sáng láng tốt lành của các
thiên thần mà là bản tính hữu h́nh hữu hạn
thấp hèn của nhân loại chúng ta? Nếu không phải
v́ chính hữu thể của Ngài cũng là một bản
thể thuần linh và v́ các thiên thần đă được
chầu chực phục vụ chung quanh Ngài rồi, trong khi
đó, loài người đă được Ngài “dựng
nên theo h́nh ảnh Ngài” (Gen 1:27),
tức có mầm mống thần linh, một loài sinh
vật hữu h́nh duy nhất trong thiên nhiên vạn vật
thuộc h́nh tượng có khả năng nhận biết
và yêu mến Ngài, để chẳng những có thể đáp
ứng Ngài như các thần lành, mà c̣n trung thực phản
ảnh Ngài, Đấng vô cùng thiện hảo muốn
mạc khải ḿnh ra cho tạo vật biết về
bản tính yêu thương tuyệt diệu của Ngài.
Thật ra, “Thiên Chúa là
thần linh” (Jn
4:24) cũng đă
tỏ ḿnh ra cho các thiên thần và các vị cũng phải
nhận biết Ngài mới được hưởng
thánh nhan Ngài, bằng không đă bị hư đi như con
khổng long cùng với một phần ba tinh tú trên trời
rồi (x Rev 12:4). Tuy nhiên, nơi trường hợp con người,
Ngài chẳng những dựng nên họ “giống h́nh
ảnh Ngài”, ở chỗ ban cho họ có tâm linh như Ngài
có Thần Linh, khi “thở vào mũi họ hơi sự
sống” (xem
Gen 2:7), nghĩa là
họ cũng có khả năng nhận biết và tự do
sinh động, giống như trường hợp của
các thiên thần, mà c̣n dựng nên họ, như Ngài nói: “tương
tự như chúng ta” (Gen 1:26),
một Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là cũng biết yêu thương
và thông hiệp như Ngài và với Ngài. Thế nên, “Ngài đă
dựng nên họ có nam có nữ” (Gen
Tuy nhiên, nếu Ngài không
thổi hơi sự sống vào mũi họ, con người
không nên giống Ngài ở chỗ có tâm linh như Ngài có
Thần Linh thế nào, th́ họ cũng không thể nào
biết yêu mến “tương tự như” Ngài, nếu
Ngài không yêu họ trước (xem 1Jn 4:19), bằng việc tỏ ḿnh ra cho họ
thấy Ngài là Thiên Chúa yêu thương:
· “Chúng ta không thể nào yêu thương
nếu chúng ta không được yêu”.
(ĐTC Gioan Phaolô
II, Sứ Điệp Chủ Đề ‘Chúa Cha yêu thương
các con’ cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XIV, ban hành
ngày 6/1/1999, trích dịch từ tuần san L’Osservatore Romano,
ấn bản Anh ngữ, ngày 20/1/1999, đoạn 3).
Đó là lư do tại sao Ngài đă
tỏ t́nh với nhân loại, bằng việc “Lời đă
hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14): “T́nh yêu của Thiên Chúa đă
tỏ hiện giữa chúng ta là ở chỗ Ngài đă sai
Con duy nhất của Ngài đến thế gian để
chúng ta nhờ Người mà được sự
sống” (1Jn
4:9).
Thật vậy:
· “Cái làm cho đức tin Kitô
Giáo khác biệt với tất cả mọi tôn giáo khác là ở
niềm tin vào con người Giêsu quê Nazarét là Con Thiên Chúa, Lời
nhập thể, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa đă đến
trong thế gian. ‘Đó là niềm xác tín hân hoan của Giáo
Hội từ ban đầu, khi Giáo Hội xướng ca
mầu nhiệm của đạo chúng ta là Người đă
tỏ hiện nơi xác thể’ (Sách Giáo Lư của Giáo Hội
Công Giáo, số 463).
Thiên Chúa là Đấng vô h́nh sống động và
hiện diện nơi con người Đức Giêsu, Con Đức
Maria, Theotokos, Mẹ Thiên Chúa. Đức Giêsu quê Nazarét là
Thiên Chúa ở cùng chúng ta, là Emmanuel: ai biết Người
là biết Thiên Chúa, ai thấy Người là thấy Thiên Chúa,
ai theo Người là theo Thiên Chúa, ai hiệp nhất bản
thân ḿnh với Người là hiệp nhất với Thiên
Chúa (xem
Jn.12: 44-50). Nơi
Đức Giêsu sinh ở Bêlem, Thiên Chúa đă mặc lấy
thân phận con người, làm cho con người có thể
tới gần Ngài, để thiết lập giao ước
với loài người”.
(ĐTC Gioan Phaolô
II, Sứ Điệp Chủ Đề ‘Lời Đă Hóa
Thành Nhục Thể và Ở Giữa Chúng Ta’ để
sửa soạn cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XV, ban
hành ngày 29/6/1999, trích dịch từ tuần san L’Osservatore
Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 7/7/1999, đoạn
2).
“Bởi thế, t́nh yêu là ở
chỗ không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà là Ngài đă
yêu thương chúng ta” (1Jn 4:10).
Tức nhân loại chúng ta có hết ḷng yêu mến Thiên Chúa
hay có thực sự yêu thương nhau chính là v́ Thiên Chúa yêu
thương trong chúng ta và qua chúng ta: “Chúng ta hăy yêu thương
v́ Ngài đă thương yêu chúng ta trước” (1Jn 4:19); “nếu Thiên Chúa yêu thương
chúng ta thế nào, chúng ta cũng phải yêu thương nhau
như thế” (1Jn
4:11). Bởi
vậy, theo ư định của Thiên Chúa khi “Ngài đă
dựng nên con người theo h́nh ảnh và tương
tự như Ngài”, Ngài chẳng những muốn tỏ
ḿnh ra (revelation) cho họ mà c̣n muốn dùng họ như
một Bí Tích Thần Linh để thông ḿnh ra
(communication) nữa. Tức là, con người không phải
chỉ là h́nh ảnh của Thiên Chúa và tương
tự như Thiên Chúa, mà phải thực sự trở
nên h́nh ảnh sống động của Thiên
Chúa, phải trở thành hiện thân đích thực của
Thiên Chúa (xem
Heb 1:3), phải trở
thành Linh Đạo Mạc Khải, Vinh Quang Thần
Hiển (theophany) của Thiên Chúa, như bụi gai cháy
lửa mà không bị thiêu rụi (xem Ex 3:2), tóm lại, họ phải trở thành Hiển
Linh của Thiên Chúa hay Thiên Chúa Hiển Linh, bấy
giờ họ mới có thể đạt đến
tầm mức viên trọn của ḿnh. Đó là lư do tại
sao Thiên Chúa Nhập Thể c̣n có nghĩa là “các con hăy nên
trọn lành như Cha trên trời của các con là Đấng
trọn lành” (Mt
5:48), và “Thày đă làm
thế nào các con cũng hăy làm như thế” (Jn 13:15).
· “Ở đây chúng ta chạm đến
một điểm chính yếu làm cho Kitô giáo khác với
tất cả mọi tôn giáo khác, những tôn giáo diễn
tả việc con người t́m kiếm Thiên Chúa từ
những thời cổ xưa nhất. Khởi điểm
của Kitô giáo bắt nguồn từ việc Lời
nhập thể. Như thế, không phải là con người
t́m kiếm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa đích thân đến nói với
chính con người, và chỉ cho con người đường
nẻo để con người có thể đến với
Ngài. Đó là điều đă được công bố
trong Phần Nhập Đề của Phúc Âm thánh Gioan: ‘Chưa
có ai đă từng thấy được Thiên Chúa; Người
Con duy nhất, Đấng ở trong ḷng Cha, Người đă
tỏ Cha ra’ (Jn.1:18). Như thế, Lời
nhập thể làm thỏa nguyện ước vọng
nơi tất cả các đạo giáo của nhân loại.
Chính Thiên Chúa đă làm cho con người được
thỏa nguyện, ngoài mọi ước mong của con người.
Đó là một mầu nhiệm của ân sủng.
“Nơi Chúa Kitô, tôn giáo không c̣n
là một ‘cuộc kiếm t́m Thiên Chúa một cách mù quáng’ (Acts 17:27) nữa, mà là một đáp ứng của
đức tin vào Thiên Chúa là Đấng tỏ ḿnh ra. Nó là
một đáp ứng mà con người nói với Thiên Chúa
như với Hóa Công, với một Người Cha,
một đáp ứng đă thành hiện thực nhờ
một con người cũng chính là Ngôi Lời, mà nơi
Người, Thiên Chúa đă nói với từng người,
và nhờ Người mỗi người có thể đáp
lại Thiên Chúa. C̣n nữa, cũng ở nơi con người
này mà mọi tạo vật đáp lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu
Kitô là một khởi sự mới cho tất cả
mọi sự. Nơi Người, tất cả mọi
sự có; chúng được thăng hóa rồi được
trả về cho Hóa Công là Đấng dựng nên chúng. Như
thế, Đức Kitô là măn nguyện của ước
vọng cho mọi tôn giáo trên thế giới, nên Người
làø tầm mức viên trọn đích thực duy nhất của
họ. Thiên Chúa nói thẳng với con người nơi Đức
Kitô thế nào, tất cả loài người và toàn thể
tạo vật cũng tự ḿnh nói với Thiên Chúa trong Đức
Kitô như vậy, thực sự đó là việc tự
hiến ḿnh cho Thiên Chúa. Mọi vật trở về với
cội nguồn của ḿnh là vậy. Chúa Giêsu Kitô làm cho
mọi sự tái tạo (x Eph.1:10), đồng thời làm hoàn tất
mọi sự trong Thiên Chúa: một hoàn tất làm vinh danh
Thiên Chúa. Tôn giáo có nền tảng nơi Đức Kitô là
một tôn giáo vinh quang; nó là một tầm vóc mới mẻ
của sự sống để chúc tụng vinh quang Thiên Chúa
(x
Eph.1:12). Tất
cả mọi tạo vật thực sự là một
biểu hiện của vinh quang Người. Đặc
biệt con người (vivens homo) là sự hiển linh của
vinh quang Thiên Chúa, một loài được kêu gọi để
sống bằng sự sống viên trọn trong Thiên Chúa”.
(ĐTC Gioan Phaolô
II, Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, 6)
Thế nhưng, trong loài người,
c̣n ai được Thiên Chúa ở cùng như Mẹ Maria (xem Lk 1:28),
được Thiên Chúa trực tiếp ở nơi thân xác
của Mẹ, được thụ thai và sinh Con Đấng
Tối Cao” (Lk
1:31-32), được
cung cấp cho Thiên Chúa chính huyết nhục của một
ḿnh ḿnh (xem
Mt 1:20, 25) để
trở thành nhân tính của Ngài. Không một tạo vật
nào được diễm phúc như Mẹ, kể cả
các thần trời (xem Rev 12:4).
Mẹ quả là “một điềm lạ cả thể
xuất hiện trên không trung, đó là một người
nữ mặc mặt trời, chân đạp mặt
trăng, đầu đội triều thiên mười hai
ngôi sao” (Rev
12:1). “Là một người
nữ mặc mặt trời”, Maria chính là Vinh Quang Thần
Hiển đệ nhất, tức là “sự hiển linh của
vinh quang Thiên Chúa” đích thực nhất và chói ngời
nhất.
THIÊN CHÚA NHẬP THỂ NGHĨA
LÀ
“CÁC CON HĂY NÊN TRỌN LÀNH NHƯ
CHA TRÊN TRỜI CỦA CÁC CON LÀ ĐẤNG TRỌN LÀNH”
M |
ột khi Thiên Chúa đă hóa
thành nhục thể, th́ nhục thể hữu h́nh, hữu
hạn, thấp hèn, cùng với tất cả những bần
cùng, khốn nạn và yếu kém nơi bản tính nhiễm
nguyên tội của con người, đă được
thần linh hóa, đă được hoàn hảo hóa nơi
ngôi vị Chúa Giêsu Kitô. Cho dù là đau khổ và chết chóc
tự ḿnh vốn là sự dữ về thể lư gắn
liền với thân phận bất hạnh của con người
đi nữa, cũng đă được Chúa Kitô Phục
Sinh biến đổi để trở thành phương
tiện cứu chuộc và ban sự sống. Thậm chí
kể cả tội lỗi là sự dữ về luân lư do
khả năng hạn hẹp, mù quáng và yếu đuối
của con người gây ra đi nữa, cũng đă được
Chúa Kitô Tử Giá đền bồi và cứu văn. Do đó,
con người có thể sợ đau khổ, nhưng khi được
Chúa gửi đau khổ đến cho, đau khổ
vẫn là Thánh Giá Cứu Độ, vẫn có sức thanh
tẩy linh hồn và thánh hóa linh hồn hơn hết, làm
cho linh hồn càng mật thiết kết hợp với Chúa
hơn, nên linh hồn phải biết vui ḷng đón nhận
và chịu đựng đau khổ như một tặng
ân hiếm quí. Cho dù con người có buộc phải ghét tội
và tránh tội, nhưng nếu đă hết sức cố
gắng nên trọn lành mà Thiên Chúa vẫn c̣n để cho
họ sa ngă, th́ tội lỗi cũng là cơ hội Ngài
muốn dùng để làm cho linh hồn biết ḿnh hơn
nữa và hoàn toàn cậy trông phó thác vào Ngài hơn nữa,
nên linh hồn cũng phải biết chấp nhận nó như
là một thứ “lỗi lầm hồng phúc” (Bài Hoan Xướng
trong Đêm Vọng Phục Sinh trước Thánh Lễ).
Chính v́ “nhục thể” đă
được Thiên Chúa Làm Người mặc lấy, mà
tôi không thể khinh thường nó, và nhất là sử dụng
nó như phương tiện để làm những ǵ
bậy bạ, đớn hèn, phản nhân phẩm và phi nhân
cách, như tà dâm, hiếp dâm, ngoại t́nh, dâm ô đồng
tính, say sưa chè chén, nghiện hút, tự tử, ngừa
thai nhân tạo v.v., trái lại, tôi phải dùng nó “như khí
giới chiến đấu cho đức công chính” (Rm 6:13). Ngoài ra, chính v́ Thiên Chúa Làm Người,
Ngài đă đồng hóa ḿnh với tất cả mọi người,
nhất là thành phần hèn kém nhất trong xă hội (xem Mt 25:35-36, 40,
42-43, 45), dù họ
nghèo nàn, tàn tật, xấu xí, bẩn thỉu, hôi hám, rách rưới,
ngu dốt, khờ khạo, điên khùng v.v. mà tôi chẳng
những không được khinh bỉ một ai, không được
ghê tránh một ai, không được làm khổ một ai,
không được sát hại một ai, trái lại, tôi
phải hết ḷng tôn trọng tất cả mọi người
và mỗi một người, tôi phải thật t́nh yêu thương
họ và hết ḿnh giúp đỡ họ như phục vụ
chính Thiên Chúa Làm Người vậy.
· “Bằng việc nhập
thể của ḿnh, Chúa Kitô đă trở nên bần cùng để
làm cho chúng ta nên phong phú nhờ cái nghèo của Người,
và Người đă ban cho chúng ta ơn cứu chuộc là
hoa trái trước hết bởi máu Người đổ
ra trên thập giá (xem
Sách Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo, số 517). Trên đồi Canvê, ‘Người
đă mang lấy các khổ đau của chúng ta Người
đă bị đâm thâu v́ các lỗi lầm của chúng ta’ (Is.53:4-5). Việc hy sinh sự sống
cao cả của Người, hoàn toàn nhưng không cho
phần rỗi của chúng ta, là dấu chứng t́nh yêu vô cùng
của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thánh Gioan Tông Đồ
viết: ‘Thiên Chúa đă yêu thương thế gian đến
ban Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Người
th́ không phải chết song được sự sống đời
đời’
(Jn.3:16). Ngài đă sai Người đến
để chia sẻ thân phận con người trong
mọi sự, ngoại trừ tội lỗi; Người
đă hoàn toàn ‘ban’ ḿnh cho con người, cho dù họ có cứng
ḷng và phủ nhận đến sát hại Người (xem Mt.21:33-39), để nhờ cái chết
của Người mang lại cho họ sự ḥa giải.
‘Vị Thiên Chúa tạo thành tỏ ḿnh ra như là một
vị Thiên Chúa cứu chuộc, như là một vị Thiên
Chúa ‘trung thành với ḿnh’ và trung thành với t́nh yêu của
ḿnh đối với con người cũng như đối
với thế gian mà Ngài đă tỏ ra trong ngày tạo
dựng... trước nhan Đấng Tạo Hóa, con người thực
sự quí hóa biết bao khi họ có được một Đấng
Cứu Chuộc cao cả như vậy’ (Thông Điệp Đấng
Cứu Chuộc Nhân Trần, 9 và 10)”
(ĐTC Gioan Phaolô
II, Sứ Điệp Chủ Đề ‘Lời đă hóa
thành nhục thể và ở giữa chúng ta’ để sửa
soạn cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XV, ban hành ngày
29/6/1999, trích dịch từ tuần san L’Osservatore Romano,
ấn bản Anh ngữ, ngày 7/7/1999, đoạn 2).
· “Các con hăy chiêm ngắm và suy
niệm! Thiên Chúa đă dựng nên chúng ta để thông
phần vào chính sự sống của Ngài; Ngài kêu gọi chúng
ta nên con cái của Ngài, nên những chi thể sống động
của Nhiệm Thể Chúa Kitô, nên đền thờ sáng ngời
của Thần Linh Yêu Thương. Ngài kêu gọi chúng ta trở
thành sở hữu của riêng Ngài: Ngài muốn tất
cả chúng ta là những vị thánh. Giới trẻ thân
mến, chớ ǵ tham vọng thiện hảo của các con
là nên thánh như Ngài là thánh...
“Hỡi giới trẻ của
mọi địa lục, các con đừng sợ là
những vị thánh của thiên niên mới! Các con hăy chiêm
niệm, hăy yêu thích nguyện cầu; các con hăy gắn bó với
đức tin của ḿnh và hăy quảng đại trong
việc phục vụ anh chị em ḿnh, các con hăy là
những chi thể sinh động của Giáo Hội và hăy
là những nhà xây dựng ḥa b́nh. Để đạt được
kết quả trong dự phóng thiết yếu của đời
sống này, các con hăy tiếp tục lắng nghe Lời Người,
hăy lấy sức mạnh từ các phép bí tích, nhất là bí
tích Thánh Thể và Thống Hối. Chúa muốn các con là
những tông đồ gan dạ cho Phúc Âm của Người
và là những nhà xây dựng cho một nhân loại mới.
Thật vậy, các con làm sao có thể tin vào vị Thiên Chúa
làm người mà lại không đứng vững trước
tất cả những ǵ hủy hoại bản thân con người
và gia đ́nh con người? Nếu các con tin rằng Chúa
Kitô đă tỏ cho thấy t́nh yêu của Chúa Cha đối
với mọi người th́ các con không thể không nỗ
lực đóng góp vào việc xây dựng một thế giới
mới, được xây dựng trên quyền năng của
yêu thương và tha thứ, chống lại với
bất công và tất cả mọi thảm cảnh về
thể lư, luân lư và tinh thần, qui hướng chính trị,
kinh tế, văn hóa và kỹ thuật vào việc phục vụ
con người và việc phát triển toàn vẹn của
con người”.
(Cùng nguồn vừa
trích dẫn, đoạn 3)