GẮN BÓ
YÊU THƯƠNG
“BỎ
CHA MẸ GẮN BÓ VỚI VỢ”’?
T |
hân phận của một người
con gái lớn lấy chồng, theo Khổng Giáo, là “xuất
giá ṭng phu”, tức là, theo ngôn ngữ b́nh dân Việt
Thế mà, theo Sách Khởi Nguyên,
ngay từ ban đầu, sau khi con người được
dựng nên có nam có nữ, và sau khi con người nhận
ra xương thịt của ḿnh nơi đồng bạn
xứng hợp với ḿnh, th́ Thánh Kinh mạc khải cho biết:
“Đó là lư do tại sao người nam ĺa bỏ cha mẹ
mà gắn bó với vợ ḿnh” (Gn.2:24). Nếu “người
nam ĺa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ ḿnh” như
thế th́ ở đây chồng theo vợ chứ đâu có
phải là vợ theo chồng! Vậy th́ văn hóa hôn nhân của
chung con người từ trước đến nay đă
đi ngược lại với ư định của Thiên
Chúa rồi sao? Những bàn giải sau đây sẽ làm sáng tỏ
vấn đề này.
Trước hết, cũng
theo Sách Khởi Nguyên, đoạn 2, nếu Thiên Chúa dựng
nên người nữ từ con người đầu
tiên tự bẩm sinh mang nam tính là Adong, và mục đích Thiên
Chúa dựng nên người nữ cho con người
mang nam tính là để người nữ trở thành một
đồng bạn xứng hợp với con người tự
bẩm sinh mang nam tính sống một ḿnh không tốt, th́ với
tư cách làm vợ của ḿnh, tức làm đồng bạn
xứng hợp của người nam, người nữ
thuộc về người nam và phải theo người
nam là chồng của ḿnh.
Sau nữa, Sách Khởi Nguyên nói
về việc con người nam nhân làm chồng đây “ĺa
bỏ cha mẹ”, trong khi Adong không hề được
sinh ra bởi một cha mẹ nào, mà là được chính
Thiên Chúa tạo thành từ bụi đất và bằng hơi
thở thần linh của Ngài. Bởi vậy, việc con
người nam nhân làm chồng “ĺa bỏ cha mẹ” đây
không có nghĩa đen là theo vợ, về ở với vợ,
như trường hợp vợ theo chồng và về ở
với chồng vẫn thấy nơi trường hợp
của người nữ làm vợ từ trước đến
nay. Đúng hơn, việc con người nam nhân làm chồng
“ĺa bỏ cha mẹ” đây là việc họ theo ơn gọi
làm chồng của ḿnh, như nam nữ theo ơn Chúa gọi
th́ bỏ nhà đi tu, hay như trường hợp Abram
theo ơn Chúa gọi th́ rời bỏ quê cha đất tổ
để đi đến nơi Chúa chỉ cho (xem Gn.12:1).
Vậy ơn gọi làm chồng của con người nam
nhân đây là ǵ, nếu không phải là, như Sách Khởi
Nguyên, ngay sau khi nói về việc Adong “ĺa bỏ cha mẹ”,
liền nói “gắn bó với vợ ḿnh”.
Phải, ơn gọi của
người làm chồng đó là “gắn bó với vợ ḿnh”.
Không phải hay sao, ơn gọi làm chồng này, theo tự
nhiên, đă gắn liền với con người mang nam tính?
Ở chỗ, khi c̣n “ở một ḿnh không tốt”, tức
là khi tới tuổi dậy th́ mà c̣n độc thân, nam nhân
tự nhiên như luôn luôn bị thúc đẩy, hay nói cách khác,
vốn có khuynh hướng t́m kiếm “xương bởi
xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Việc nam nhân
t́m kiếm nữ giới, qua việc đi “cua”, “tán”, “theo”
phái đẹp đây không phải là dấu hiệu chứng
tỏ ơn gọi “gắn bó với vợ ḿnh” khi lập
gia đ́nh hay sao?
T |
hế nhưng, người
chồng phải thực hiện ơn gọi “gắn bó với
vợ ḿnh” bằng cách nào và như thế nào mới đúng
như ư Đấng đă xe duyên kết nghĩa cho ḿnh, như
chính Ngài đă dựng nên Evà và c̣n đích thân mang Evà đến
cho Adong, để chính thức kết duyên cho đôi uyên ương
nguyên tổ trong vườn địa đàng, lúc mà cả
hai đang ngây ngất hồn nhiên với bộ áo cưới
“trần truồng không biết xấu hổ”. Cũng ngay
trong cùng một đoạn và câu của Sách Khởi Nguyên trên
đây, sau khi nói đến chuyện con người nam tính
“ĺa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ ḿnh”, Mạc
Khải Thánh Kinh liền tiết lộ bản chất làm nên
hôn nhân nói chung và ư nghĩa sâu xa của ơn gọi làm chồng
nói riêng, qua câu: “và trở nên một thân thể với vợ”.
Đúng vậy, để thể
hiện ơn gọi làm chồng là “gắn bó với vợ
ḿnh”, con người nam tính phải “trở nên một thân
thể với vợ”. Hay nói cách khác, “trở nên một thân
thể với vợ” là người chồng hoàn thành ơn
gọi làm chồng của ḿnh. Thế nhưng, thực tế
cho thấy, về sinh lư hay thể lư, người chồng
không thể nào “trở nên một thân thể với vợ”
được. Do đó, chữ “thân thể” đây phải
hiểu là bản thân ḿnh, bản thân người chồng,
tức là người vợ của người chồng, đúng
như văn hóa Việt Nam vẫn cho phép người chồng
gọi vợ là “ḿnh”, và đúng như lời Thánh Phaolô khuyên
người làm chồng là “phải yêu thương vợ ḿnh
như yêu thương bản thân ḿnh. Ai yêu vợ ḿnh là yêu
chính bản thân ḿnh” (Eph.5:28). Như thế, để “trở
nên một thân thể với vợ” hầu có thể thực
hiện trọn vẹn và hoàn hảo ơn gọi làm chồng
của ḿnh, người chồng “phải yêu thương vợ
ḿnh như yêu thương bản thân ḿnh”.
Nói tóm lại yêu thương
vợ ḿnh là ơn gọi của người làm chồng,
hay nói ngược lại, ơn gọi của người
làm chồng là yêu thương vợ ḿnh. Người chồng
nào cảm thấy cuộc sống hôn nhân với vợ ḿnh
không c̣n hay không có hạnh phúc th́ trước hết hăy xét lại
xem ḿnh đă chu toàn hay đă hết sức thực hiện
ơn gọi “yêu thương vợ ḿnh như yêu thương
bản thân ḿnh” chưa? Nếu rồi th́ họ có khổ cũng
đừng lo, tới thời điểm Chúa định,
Ngài sẽ giải quyết mọi sự tốt đẹp
cho họ, như Ngài đă thực hiện trong trường
hợp của Thánh Giuse (xem Mt.1:18-25).
Tuy nhiên, cả Thánh Kinh lẫn
thực tế cho thấy, cũng không thiếu những trường
hợp người chồng “yêu thương vợ ḿnh như
yêu thương bản thân ḿnh” mà vẫn không hoàn trọn ơn
gọi làm chồng của ḿnh, trái lại, c̣n tác hại đến
chính bản chất hôn nhân là “trở nên một thân thể
với vợ” nữa. Điển h́nh nhất là trường
hợp của đôi uyên ương nguyên tổ trong vườn
địa đàng. Adong đă chẳng yêu thương vợ
ḿnh hay sao, đến nỗi, như chính Thiên Chúa cũng nhận
thấy là “ngươi đă nghe vợ mà ăn cây Ta cấm
ngươi ăn” (Gn.3:17). Ở đây, tuy Adong không ghét vợ
hay không c̣n hợp với vợ ḿnh đă tự ḿnh “chọn”
chứ không ai ép, để có thể đi đến chỗ
ly dị vợ ḿnh như ngày nay, nhưng t́nh của Adong yêu
Evà cũng đă làm cho hai người, thay v́ “trở nên một
thân thể”, lại gặp phải t́nh trạng ly thân đáng
thương.
Đúng thế, sau khi yêu thương
nhau cách hồn nhiên nhưng ngang trái với ư muốn của
Thiên Chúa, đôi uyên ương nguyên tổ đă không ly thân
nhau là ǵ, khi hai người, về thể lư, tuy là vợ chồng
với nhau, mỗi người cũng phải t́m cách che giấu
đi “cái” phái tính đặc thù (private part) của ḿnh, chứ
không c̣n là một thân thể khi “cả hai trần truồng
mà không biết xấu hổ” (Gn.2:25) nữa. Về tâm lư, đôi
uyên ương nguyên tổ cũng không ly thân nhau là ǵ, khi
Adong bị Chúa hạch hỏi “ai đă bảo cho ngươi
biết rằng ngươi trần truồng?” (Gn.3:11) liền
đổ lỗi cho Evà: “Người nữ mà Chúa cho ở
với tôi đă đưa cho tôi trái cây đó nên tôi đă ăn”
(Gn.3:12).
T |
hành ngữ “người nữ
mà Chúa cho ở với tôi”, được thốt ra từ
cửa miệng Adong đây, chẳng những nói lên việc
vợ theo chồng hơn là chồng theo vợ, mà c̣n nói lên
việc Adong ư thức được hôn nhân là một ơn
gọi chứ không phải là chỉ việc t́m kiếm để
đáp ứng cho thỏa măn nhu cầu tâm sinh lư tự nhiên
tới thời của nó nơi con người phái tính của
ḿnh. Chính v́ ngày nay người ta theo văn hóa hôn nhân “pro
choice”, tức chủ trương tôi có quyền chọn ư
trung nhân th́ tôi cũng có quyền bỏ, có quyền chọn
lại, mới xẩy ra t́nh trạng ly dị và phá sản
hôn nhân như ngày nay, và từ đó lây sang t́nh trạng phá
thai khủng khiếp như bây giờ. Hiện tượng
ly dị được pháp lư hóa cho thấy hết sức
rơ ràng là con người cực kỳ văn minh ngày nay qúa ấu
trĩ, không biết chọn lựa ǵ cả, chọn ǵ cũng
không xong, không được như ư, thay đổi, chóng
chán, như trẻ con!
Thế nên, tới khi nào con người
ư thức được hôn nhân là một ơn gọi, ở
chỗ, người bạn đời của ḿnh là do Thiên
Chúa chọn cho ḿnh, ḿnh chỉ là người chấp nhận
nhau từ Ngài, như Adong đă chấp nhận Evà từ
tay Thiên Chúa trong vườn địa đàng như “người
nữ Chúa cho ở với tôi”, hôn nhân của con người
mới thực sự có ư nghĩa, bền bỉ và hạnh
phúc. Bởi v́, một khi ư thức được người
bạn đời của ḿnh là “người Chúa cho ở với”
ḿnh th́ vợ chồng mới kính trọng nhau như là người
của Chúa, chứ không phải chỉ yêu thích nhau như
là người của ḿnh, cho đến khi không thích nữa
th́ bỏ, th́ t́m người khác. Và v́ vợ chồng
là “người Chúa cho ở với” ḿnh như thế, nên
phản bội nhau là phản bội Chúa trước hết,
là “phân rẽ những ǵ Thiên Chúa đă kết hợp”
(Mt.18:6).
Nếu Adong ư thức được
hôn nhân là một ơn gọi và đă yêu thương “gắn
bó với vợ ḿnh” là “người Chúa cho ở với” ông,
mà c̣n chưa hoàn tất được ơn gọi làm chồng
của ḿnh, và nếu Thánh Giuse là “một con người công
chính” (Mt.1:19) c̣n gặp bị thử thách trong đời sống
hôn nhân đến gần như làm cho hôn nhân bất thành, th́
vợ chồng nói chung và người làm chồng nói riêng ngày
nay, không nhiều th́ ít, không nặng th́ nhẹ, làm sao có thể
hoàn toàn tránh được những cơn băo El Nĩno tàn
phá hay dập vùi hạnh phúc hôn nhân, chứ chưa nói đến
việc “Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội thế nào, các người
chồng cũng phải yêu thương vợ ḿnh như vậy”
(Eph.5:25).
Phải, chỉ có t́nh yêu Chúa
Kitô đối với Giáo Hội nơi thành phần làm chồng
mới có thể giải nguy cho t́nh trạng hôn nhân đang
phá sản khủng khiếp ngày nay. Nếu Adong, khi c̣n trong
t́nh trạng công chính nguyên thủy chưa biết đến
tội lỗi là ǵ, mà thấy được gương của
Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội để mà noi theo, th́ chưa
chắc Adong đă yêu thương Evà vợ ḿnh ngang trái và
tai hại như thế. Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội.
Adong cũng yêu thương Evà. Tuy nhiên, t́nh yêu của Chúa
Kitô đă thánh hóa Giáo Hội (xem Eph.5:27), trong khi t́nh yêu của
Adong lại làm cho Evà phải mang nặng đẻ đau (xem
Gn.3:16).
Vậy, nếu ơn gọi
của người làm chồng là “gắn bó với vợ
ḿnh”, bằng việc “trở nên một thân thể với
vợ”, được thể hiện nơi mối t́nh “yêu
thương vợ ḿnh như yêu thương bản thân ḿnh”,
không phải như kiểu cách của ḿnh mà là “như Chúa
Kitô yêu thương Giáo Hội và đă hiến ḿnh cho Giáo Hội”,
th́ xin thánh Giuse, vị phu quân công chính đă hết ḿnh yêu thương
Mẹ Maria là người Chúa cho ở với ngài, khi ngài
vui nhận Mẹ về nhà làm bạn, để phục vụ
Mẹ và Chúa Giêsu như một người “làm đầu
là làm tôi tớ” (Mt.20:27), cầu xin cho mỗi một người
làm chồng và làm gia trưởng trong gia đ́nh, được
tràn đầy Chúa Thánh Thần là T́nh Yêu ban Sự Sống.
(bài này đă được
phổ biến trên Bản Tin Song Nguyền của Chương
Tŕnh Thăng Tiến Hôn Nhân 3/1998, và Tam Cá Nguyệt San Vào Đời,
6/2000)