7
ƠN GỌI
CỦA EVÀ:
LÀM MẸ
SỰ SỐNG
N |
ói đến Evà, người
ta đều biết đó là vị nữ nguyên tổ của
loài người. Đúng thế, theo Thánh Kinh Do Thái Giáo cũng
như Kitô Giáo, sau khi hai nguyên tổ loài người là Adong
và Evà sa ngă phạm tội mất ḷng Thiên Chúa là Đấng
đă tạo dựng nên các vị và cho các vị sống
trong vườn địa đường, qua việc các
vị ăn trái cây biết lành biết dữ ở
giữa vườn là cây bị Ngài cấm, và sau khi các vị
cùng với con rắn qủi cám dỗ nữ nguyên tổ
lănh bản án Thiên Chúa tuyên phạt, th́ Sách Khởi Nguyên ở
đoạn 3 câu 20 ghi lại rằng: “Con người gọi
vợ ḿnh bằng tên Evà, v́ nàng đă là mẹ của
tất cả các sinh vật”.
Thật vậy, nếu ơn
gọi của Adong là ơn gọi làm chồng Evà, ở chỗ,
cũng theo bộ Thánh Kinh này, trong đoạn 2 câu 24 của
cùng Sách Khởi Nguyên: “Con người ĺa bỏ cha mẹ ḿnh
mà gắn bó với vợ ḿnh”, th́ quả thật “Ơn Gọi
của Evà là Làm Mẹ Sinh Linh”, tức ơn gọi của
Evà không phải chỉ ở tại việc hiến thân cho
chồng ḿnh để “cả hai trở nên một xương
thịt” (Gn.2:24) mà thôi. Bởi v́, nước không bao giờ
chảy ngược thế nào, t́nh yêu con người cũng
phải xuôi chiều như vậy, tức là theo tiến tŕnh
tự nhiên phát xuất từ Adong yêu thương gắn bó
với Evà để rồi, nhờ được Adong yêu
thương, Evà có thể đóng vai tṛ làm mẹ. Thế
nên, bao giờ con người được dựng nên “có
nam có nữ” (Gn.1:27) đi ngược chiều hay đi sai
lệch với tiến tŕnh ơn gọi hôn nhân do Thiên Chúa
Tối Cao vô cùng khôn ngoan xếp định này, họ khó ḷng
có thể tránh được tai nạn xẩy đến
cho ḿnh, như cơn khủng hoảng xă hội ngày nay
bắt nguồn từ hôn nhân và gia đ́nh đă chứng
thực hết sức rơ ràng. Về vấn đề này,
trong bài “Ơn Gọi của Adong: Gắn Bó với Vợ”
(trang 104-105) người viết đă nhận định
như sau:
·
Chính v́ ngày nay người
ta theo văn hóa hôn nhân “pro choice”, tức chủ trương
tôi có quyền chọn ư trung nhân th́ tôi cũng có quyền bỏ,
có quyền chọn lại, mới xẩy ra t́nh trạng ly
dị và phá sản hôn nhân như ngày nay, và từ đó lây
sang t́nh trạng phá thai khủng khiếp như bây giờ.
Hiện tượng ly dị được pháp lư hóa cho
thấy hết sức rơ ràng là con người cực
kỳ văn minh ngày nay qúa ấu trĩ, không biết chọn
lựa ǵ cả, chọn ǵ cũng không xong, không được
như ư, thay đổi, chóng chán, như trẻ con! Thế
nên, tới khi nào con người ư thức được hôn
nhân là một ơn gọi, ở chỗ, người
bạn đời của ḿnh là do Thiên Chúa chọn cho ḿnh, ḿnh
chỉ là người chấp nhận nhau từ Ngài, như
Adong đă chấp nhận Evà từ tay Thiên Chúa trong vườn
địa đàng như “người nữ Chúa cho ở với
tôi”, hôn nhân của con người mới thực sự có
ư nghĩa, bền bỉ và hạnh phúc.
Đúng thế, nếu
con người nam nữ sống đời vợ chồng
với nhau, đặc biệt trong thời khoa học
kỹ thuật tối tân tiến ngày nay, không ư thức
hôn nhân là một ơn gọi, th́ như thực
tế cho thấy, không sớm th́ muộn, hôn nhân của
họ cũng sẽ trở thành một thứ tṛ chơi,
mà hậu quả là con cái vô tội của họ sẽ trở
thành một món đồ chơi.
T |
ầm quan trọng của việc
ư thức ơn gọi hôn nhân liên hệ đến “vấn
đề sinh sản” đă được Đức Phaolô
VI nhấn mạnh trong Thông Điệp Sự Sống Con Người
ở đoạn 7 như sau:
·
“Vấn đề
sinh sản, giống như mọi vấn đề khác
liên quan đến sự sống con người, phải được
cứu xét vượt ra ngoài cả những quan điểm
riêng rẽ - dù là trật tự sinh lư hay tâm lư, dân số hay
xă hội - tức phải được cứu xét theo ư
nghĩa của một cái nh́n toàn diện về con người
và về ơn gọi của họ, chẳng những ơn
gọi tự nhiên và trần thế, mà c̣n cả ơn gọi
siêu nhiên và vĩnh cửu của họ nữa”.
Thế nhưng, ư thức ơn
gọi hôn nhân là ǵ, nếu không phải là nhận biết
nguồn gốc thần linh của t́nh yêu hôn nhân để
sống đúng bản chất và sứ mệnh đích thức
của t́nh yêu này. Chính v́ thế, trong cùng một bức Thông
Điệp Sự Sống Con Người, ngay sau khi đề
cập đến vấn đề hôn nhân là một ơn
gọi, Đức Phaolô VI đă nhắc lại giá trị
của “t́nh yêu hôn nhân” như sau:
·
“T́nh yêu hôn nhân
biểu tỏ bản chất và cao qúi chân thực của ḿnh
khi nó được coi như phát xuất từ nguồn
gốc tối cao là Thiên Chúa, Đấng là t́nh yêu (x.1Jn.4:8),
là ‘Cha mà mọi gia đ́nh trên trời dưới đất
mang tên gọi’ (x.Eph.3:15). Thế nên, hôn nhân không phải là
kết quả của ngẫu nhiên hay sản vật của
một cuộc tiến hóa bởi những năng lực vô
thức tự nhiên; nó là một cơ cấu khôn ngoan của
Đấng Hóa Công để thể hiện nơi con người
dự án yêu thương của Ngài. Nhờ việc hỗ
tương trao tặng bản thân ḿnh cho nhau, xứng hợp
và toàn thể, vợ chồng hướng đến một
cuộc hiệp thông hữu thể của ḿnh liên hệ đến
tầm vóc toàn hảo chung, để hợp tác với Thiên
Chúa trong việc sản sinh và giáo huấn các cuộc
sống mới” (đoạn 8)...
·
“Hôn nhân và t́nh yêu
phối ngẫu, tự bản chất của ḿnh, là để
sinh sản và giáo dục con cái. Con cái thật sự là qùa
tặng cao cả của hôn nhân và đóng góp rất trọng
yếu cho việc an toàn của cha mẹ ḿnh” (đoạn
9).
Với ư thức ơn gọi
hôn nhân như thế, trong thực hành, vợ chồng c̣n
cần phải tỏ ra bằng việc làm, nhất là ở
việc sinh sản con cái là mục đích chính yếu của
hôn nhân và là căn nguyên sâu xa làm nên hôn nhân. Thế nên, theo gịng
tư tưởng được bố cục thứ
tự hết sức mạch lạc của ḿnh, Thông Điệp
Sự Sống Con Người tiếp tục diễn đạt
ở đoạn 10 về “việc truyền sinh” chân chính
thế này:
·
“Thế nên, trong
việc truyền sinh, cha mẹ không được tự
do tiến hành hoàn toàn theo ư ḿnh, như thể họ có
thể định đoạt một cách hoàn toàn tự động
đường lối xứng hợp phải theo; song họ
phải tác động hợp với ư định sáng
tạo của Thiên Chúa, được thể hiện ngay
nơi bản chất của hôn nhân cũng như của
việc làm hôn nhân, và được biểu lộ bằng
giáo huấn liên tục của Giáo Hội”.
Tuy nhiên, để áp dụng
trọn vẹn và xác đáng ư thức ơn gọi hôn nhân
trong việc truyền sinh vào thời điểm hiện
nay không phải là một chuyện dễ, như những
người làm cha làm mẹ chúng ta hầu như ai cũng
cảm thấy. Để giải đáp vấn đề
ngừa thai xứng hợp với ơn gọi hôn nhân cao
cả, Thông Điệp Sự Sống Con Người, sau
khi tỏ ra thông cảm với các cặp vợ chồng
gặp những khó khăn trong việc sinh dưỡng con
cái, đă dứt khoát chủ trương của ḿnh ở đoạn
16 như sau:
·
“Nếu vậy, một
số người có thể đặt vấn đề:
vào hoàn cảnh hiện nay, không hợp lư hay sao, trong
nhiều trường hợp cần phải sử dụng
đến phương pháp ngừa thai nhân tạo, nếu
nhờ đó chúng tôi bảo toàn được sự ḥa
thuận và b́nh an trong gia đ́nh, cũng như tạo điều
kiện tốt hơn cho việc giáo dục những đứa
con đă được sinh ra? Về vấn đề này,
cần phải trả lời một cách rơ ràng minh bạch
như sau: Giáo Hội là người đầu tiên ca ngợi
và khuyến khích việc can thiệp sáng suốt vào phận
sự được gắn sát với tạo vật có lư
trí trước Đấng Tạo Hóa; thế nhưng, Giáo
Hội xác nhận rằng, việc này phải được
thực hiện theo sự tôn trọng trật tự được
Thiên Chúa thiết lậïp. Bởi thế, nếu có lư do quan
trọng trong việc co giăn sinh nở, gây ra do t́nh trạng
thể lư hay tâm thần của vợ chồng, hay những
hoàn cảnh ngoại tại, Giáo Hội dạy rằng,
bấy giờ cần phải căn cứ vào chu kỳ
tự nhiên trong phần hành truyền sinh, để làm việc
vợ chồng trong thời kỳ không đậu thai mà thôi,
và nhờ cách này mà điều hành việc sinh sản mới
không vi phạm đến những nguyên tắc luân lư...”.
Nếu không theo nguyên tắc
và đường lối chính đáng hợp với
“trật tự được Thiên Chúa thiết lập” để
“không vi phạm đến những nguyên tắc luân lư” này,
con người sẽ đưa cuộc sống hôn nhân của
ḿnh nói riêng, và gia đ́nh của ḿnh nói chung, thậm chí
cả xă hội loài người của ḿnh nữa, đến
một t́nh trạng được Thông Điệp Sự
Sống Con Người tiên báo rất chính xác, như
thực tế hiện nay cho thấy, qua đoạn 17 như
sau:
·
“Có lư để sợ
rằng nam nhân, trong việc đi sâu vào việc sử dụng
những đường lối ngừa thai trái phép,
cuối cùng có thể mất đi ḷng trọng kính nữ
giới, và v́ không c̣n để ư tới t́nh trạng quân b́nh
về thể lư cũng như tâm lư của họ, có
thể tiến đến chỗ coi họ thuần túy như
một dụng cụ hưởng thụ ích kỷ của
ḿnh, họ không c̣n là người đồng bạn đáng
kính và yêu dấu của ḿnh nữa. Cũng cần xét đến
việc trao khí giới nguy hiểm vào tay một thứ chính
quyền không c̣n nghe theo những đ̣i hỏi luân lư. Ai có
thể đổ lỗi cho chính quyền về việc
giải quyết những rắc rối của cộng đồng
bằng cách dùng những phương tiện được
công nhận là hợp pháp cho các cặp vợ chồng
để giải quyết những vấn đề gia đ́nh?
Ai sẽ ngăn cản được các nhà cầm
quyền khỏi chấp nhận phương pháp ngừa
thai mà họ cho rằng hiệu nghiệm nhất, ngay
cả khỏi việc họ áp đặt lên dân chúng của
ḿnh phương pháp này, một khi họ cho là cần
thiết? Như thế, con người, trong khi muốn
tránh những khó khăn về cá nhân, gia đ́nh hoặc xă hội
ngược lại với việc giữ lề luật
thần linh, sẽ tiến đến chỗ đặt
lănh vực cá nhân nhất và riêng tư nhất của t́nh
tự hôn nhân vào sự can thiệp thương hại của
chính quyền. Kết quả là, nếu không muốn sứ
mệnh truyền sinh bị lạm dụng bởi ư
muốn buông thả của con người, họ cần
phải nhận biết những giới hạn không
thể vượt qua đối với khả năng nơi
quyền thống trị của con người trên thân xác
ḿnh cũng như trên các phần hành của nó; những giới
hạn mà không một ai, dù là cá nhân riêng tư hay một người
có thẩm quyền, cho rằng ḿnh có quyền qua mặt”.
Q |
ua lời cảnh báo này, Thông Điệp
Sự Sống Con Người của Đức Phaolô VI
quả thực là một sứ điệp tiên tri cho thời
điểm hiện đại. Nếu để ư trong các đoạn
Thông Điệp được trích dẫn vừa rồi,
chúng ta sẽ thấy có 2 điều Đức Phaolô VI lo
ngại chính, liên quan đến việc sử dụng phương
pháp ngừa thai nhân tạo không đúng với “trật
tự được Thiên Chúa thiết lập” và đă “vi
phạm đến những nguyên tắc luân lư”, những điều
lo ngại đă trở thành thực tế phũ phàng trước
mắt chúng ta ngày nay.
Điều lo ngại thứ
nhất là: “Có lư để sợ rằng nam nhân, trong việc
đi sâu vào việc sử dụng những đường
lối ngừa thai trái phép, cuối cùng có thể mất đi
ḷng trọng kính nữ giới, và v́ không c̣n để ư tới
t́nh trạng quân b́nh về thể lư cũng như tâm lư của
họ, có thể tiến đến chỗ coi họ
thuần túy như một dụng cụ hưởng thụ
ích kỷ của ḿnh, họ không c̣n là người đồng
bạn đáng kính và yêu dấu của ḿnh nữa”. Điều
này cho thấy, kính thưa qúi vị, một cách trực
tiếp nơi thị trường buôn dâm, vẫn biết
loại thị trường này đă có từ trước,
song đến nay, thị trương măi dâm này lại càng
ngày càng đầy giẫy và tinh vi khêu gợi hơn nơi
những phim ảnh, h́nh ảnh, hộp đêm phơi
bầy phụ nữ khỏa thân để mua vui cho nam giới,
nhất là nơi một số nước bên Á Châu và Úc Châu
đang làm ngơ trước dịch vụ du lịch mua
dâm. Sự kiện khinh thường xác thể phụ
nữ này c̣n phơi bầy cách gián tiếp qua sự kiện
ly dị mỗi ngày một tăng, nhất là ở các nước
tân tiến Âu Mỹ, ở một môi trường con người
chỉ chạy theo tiện nghi vật chất hơn là trọng
t́nh trọng nghĩa, một môi trường hưởng
thụ theo cá nhân chủ nghĩa hơn là phục vụ cho
tha nhân cộng đồng, một môi trường cạnh
tranh kinh tế lợi lộc và chính trị chủ
quyền hơn là tinh thần hy sinh bỏ ḿnh v.v.
Điều lo ngại thứ
hai là: “Ai sẽ ngăn cản được các nhà
cầm quyền khỏi chấp nhận phương pháp ngừa
thai mà họ cho rằng hiệu nghiệm nhất, ngay
cả khỏi việc họ áp đặt lên dân chúng của
ḿnh phương pháp này, một khi họ cho là cần
thiết?” Đă không xẩy ra đúng như thế hay
sao, riêng luật pháp ở Hoa Kỳ đă cho phép phá thai vào
năm 1973, tức sau bức Thông Điệp này 5 năm. Điển
h́nh nhất là Hội Nghị về Dân Số ở Cairô nước
Ai Cập năm 1994 bốn năm trước đây,
Năm Quốc Tế Gia Đ́nh do Liên Hiệp Quốc tổ
chức, một hội nghị muốn triệt để
phát động phương pháp ngừa thai nhân tạo để
kiểm soát dân số thế giới, đến nỗi,
nếu không bị hai khối Công Giáo và Hồi Giáo cực
lực phản chống một cách hết sức nghiêm chỉnh
và kịch liệt, th́ phụ nữ trên thế giới nói
chung, và ở các nước chậm tiến hay đang
tiến nói riêng, v́ ngay lành hay dù không muốn, cũng đă
phải tuân theo một thể chế quốc tế hóa
trong việc hạn chế sinh sản hoàn toàn vô nhân đạo
và phản luân lư mất rồi.
· “Ở một xă hội mà
người mẹ có thể sát hại con ḿnh th́ c̣n ǵ người
ta lại không dám hủy hoại. Một đất nước
giết hại những trẻ em c̣n trong bụng mẹ -
những con người được tạo tác để
sống và để được yêu thương,
những tạo vật được dựng nên giống
h́nh ảnh Thiên Chúa - th́ đất nước đó là một
đất nước bần cùng nhất”.
Mẹ Têrêsa Calcutta đă suy
luận và tuyên bố như thế.
Thật vậy, cứ đà
này, thế giới chúng ta hiện sống đang ở trên
đà lao ḿnh xuống hố diệt vong, với nhân số
càng ngày càng suy giảm tới mức không thể nào lấy
lại được nữa. Như các cuộc nghiên cứu
gần đây cho thấy, hầu hết dân số trên
cả thế giới được phát triển là do người
ta sống lâu hơn là sinh nhiều hơn. Số sinh đă
giảm sút hẳn tại Bắc Mỹ, Mỹ Châu La Tinh,
Aâu Châu và Đông Á. Theo chiều hướng này th́ Aâu Châu
sẽ hụt dân số vào năm 2005; mức độ thụ
thai của các nước tân tiến sẽ rơi xuống
dưới mức độ bù trừ vào năm 2015,
và cả thế giới sẽ hụt dân số vào năm
2045. Phần trăm của dân số thế giới
tăng hiện nay ở mức thấp nhất trong lịch
sử và tiếp tục giảm sút mỗi năm...
Ngoài ra, c̣n một dấu chứng
nữa báo hiệu t́nh trạng con người đang trên đà
diệt vong là việc tràn lan các chứng bệnh bị nhiễm
lây theo đường sinh dục, theo tiếng Mỹ là
sexually transmitted diseases. Thật vậy, không kể hội
chứng liệt kháng, hay Aids bên tiếng Mỹ và Siđa như
người Việt chúng ta vẫn quen gọi, một hội
chứng đă lan tràn khắp thế giới mà khoa học
tân tiến ngày nay vẫn không thể đối phó nổi,
th́ riêng tại Mỹ quốc này, theo các tài liệu của Đại
Học Chuyên Viên Sản Khoa Hoa Kỳ, của bác sĩ Joe
Mclllhaney Jr. trong cuốn Safe Sex do Baker Book House xuất
bản năm 1991, và của Các Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh
Tật ở Atlanta, tiểu bang Georgia, cho biết: Các bệnh
truyền nhiễm theo đường sinh lư là những chứng
bệnh thịnh hành nhất hiện nay, chỉ thua có
cảm cúm thông thường mà thôi; 1 trong 5 người
Mỹ hiện nay đang mắc phải chứng bệnh
này; 12 triệu trường hợp bắt đầu bị
bệnh này được tường tŕnh hằng năm,
tức 33 ngàn vụ mỗi ngày; 45 triệu người Hoa
Kỳ bị nhiễm chứng bệnh này không thể
chữa trị
CỨU VĂN T̀NH THẾ
V |
ậy, để cứu văn t́nh
trạng băng hoại gia đ́nh gây ra bởi cuộc khủng
hoảng t́nh yêu hôn nhân mà hậu quả, ngoài các chứng bệnh
truyền nhiễm theo đường sinh lư nguy tử, là
chính những thai nhi vô tội bị chết oan uổng, hội
ḍng Thừa Sai Bác Aùi của Mẹ Têrêsa Calcutta đă
thực hiện “chương tŕnh kế hoạch hóa theo phương
cách tự nhiên” cho các cặp vợ chồng, và chương
tŕnh “đừng phá thai” qua việc nhận nuôi trẻ em bị
bỏ rơi sau khi sinh ra.
Về “chương tŕnh
kế hoạch hóa theo phương pháp tự nhiên”, Mẹ Têrêsa cho biết thành
quả về sinh lư, về cả sinh lư lẫn tâm lư, và cho
chung xă hội, như sau. Thành qủa về sinh lư: “Có ba ngàn
gia đ́nh tham dự chương tŕnh kế hoạch hóa
theo phương pháp tự nhiên th́ có khoảng 95% đă thành
công. Tôi thiết nghĩ nếu chúng ta có thể mang phương
pháp tự nhiên này truyền dạy cho tất cả mọi
quốc gia, và nếu tất cả mọi người
nghèo có thể học biết phương pháp này, th́
chắc sẽ ḥa b́nh hơn, yêu thương nhau hơn trong
các gia đ́nh”. Thành quả về cả sinh lư lẫn tâm lư:
“Nhiều người đă nói với tôi rằng: ‘Nhờ
việc học hỏi để kế hoạch hóa gia đ́nh
theo đường lối tự nhiên mà t́nh yêu của chúng
tôi và sự kính trọng nhau nơi chúng tôi khá hơn trước’.
Các Nữ Tử Bác Aùi của hội ḍng chúng tôi đă hướng
dẫn các gia đ́nh, cho cả vợ lẫn chồng, việc
kế hoạch hóa theo phương pháp tự nhiên, và họ
đă cho chúng tôi biết họ cảm thấy khỏe
mạnh hơn trước. Họ bày tỏ rằng ‘chúng tôi
hiện nay khỏe lắm. Thêm vào đó, chúng tôi lại c̣n
biết tùy nghi có con theo ư ḿnh nữa’”. Thành quả cho chung
xă hội: “Nơi nào chính quyền cũng lo ngại về
vấn đề khủng hoảng nhân số... Chúng tôi đă
giúp cho chính phủ Aán Độ, đặc biệt ở
nguyên tại Calcutta, trong 10 năm qua giảm tỉ lệ
dân số hơn cả triệu người. Đó là lư do
tại sao chính quyền Aán Độ đă hoàn toàn công
nhận giá trị của việc kế hoạch hóa gia đ́nh
theo phương pháp tự nhiên”.
Về chương tŕnh “đừng
phá thai” qua việc
nhận nuôi trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi sau khi
sinh ra, Mẹ Terêsa cũng lên tiếng kêu gọi như sau:
“Hôm ấy, có một phụ nữ người Aán đến
chia sẻ với tôi về nỗi khổ tâm dằn
vặt mà bà đang trải qua. Người đàn bà này
rất giầu, có đủ mọi thứ, song lại
hết sức buồn đau. Bà tức tưởi nói:
‘Mẹ ơi, tôi vừa trông thấy một em bé độ
8 tuổi chơi ở ngoài sân. Khi thấy đứa bé kia
tự nhiên tim tôi nhức buốt, lương tâm cứ dày
ṿ cắn rứt trong tôi, v́ trước đây tám năm tôi
đă phá thai. Thưa Mẹ, nếu không phá thai th́ giờ đây
tôi đă có một đứa con cũng lên 8 tuổi rồi’.
Qúi vị thân mến, nếu qúi vị không muốn nuôi
trẻ em th́ hăy đem chúng đến cho chúng tôi. Tôi
muốn nhận chúng. Tôi sẽ t́m cho chúng một mái ấm để
yêu thương và dưỡng nuôi chúng. Tôi chỉ xin qúi vị
một điều là đừng giết người. Đừng
hủy hoại. Đừng sát hại...”
Không phải một ḿnh
Mẹ Têrêsa cho chúng ta biết thành quả tốt đẹp
và hầu như mỹ măn của phương pháp ngừa
thai nhân tạo, mà c̣n cả các bậc thức giả đương
thời nữa. Chẳng hạn, theo tác giả Mercedes A.
Wilson, trong cuốn “Love and Family” do Ignatius Press ở San
Francisco xuất bản năm 1996, qua bản phân tích mức
độ hiệu nghiệm của các phương pháp ngừa
thai nhân tạo với Ovulation Method là phương pháp
tự nhiên căn cứ theo chu kỳ trứng rụng, th́
kế hoạch hóa gia đ́nh theo đường lối
tự nhiên, Natural Family Planning, như phương pháp trứng
rụng, đă được thử nghiệm gắt gao trong
hai thập niên qua, cho thấy mức công hiệu tối đa,
lên đến 98-99%. Mức độ thành qủa này qua
mặt cả mức độ hiệu nghiệm của
tất cả mọi y dụng được phát minh ra để
phá thai hay ngừa thai nhân tạo.
Như thế, với “Chân Lư
Rạng Ngời” của Thông Điệp Sự Sống Con
Người do Đức Phaolô VI ban hành cách đây 30
năm, và với kinh nghiệm sống động hết sức
thực tế của Mẹ Têrêsa Cacultta trong việc hướng
dẫn để áp dụng phương pháp ngừa thai
tự nhiên từ đó tới nay, th́ chỉ có những ai
không chịu thử hay ngại áp dụng, hoặc không thể
làm chủ được ḿnh, phương pháp hiệu nghiệm
này mới không có kết quả mà thôi. Trái lại, nếu đă
có tinh thần sống ơn gọi hôn nhân, th́ dù việc
sử dụng phương pháp này chẳng may có không thành công,
nơi 1 hay 2 hoặc 5 phần trăm trong số họ đi
nữa, họ cũng vẫn vui ḷng chấp nhận sự
sống mới do Thiên Chúa ban cho họ.
Tóm lại, nếu các
cặp vợ chồng biết sống đạo trong đời
sống hôn nhân, tức thực sự và hết sức
sống ơn gọi hôn nhân cao cả của ḿnh, chắc
chắn họ sẽ không bị cuốn hút đến
bật gốc nhân phẩm của ḿnh trong cơn lốc
“văn hóa tử vong”. Nhận thức như là một
niềm xác tín này của tôi có thể được chứng
thực qua cuộc nghiên cứu được bà Mercedes Arzú
Wilson là chủ tịch kiêm sáng lập Hội Gia Đ́nh của
Người Mỹ và Hội Thế Giới cho Gia Đ́nh,
thống kê cho thấy như sau: Các cặp lấy nhau trước
ṭa đời th́ một nửa bỏ nhau; các cặp
lấy nhau theo Giáo Hội th́ 1 phần 3 bỏ nhau; các
cặp lấy nhau theo Giáo Hội và cùng nhau tham gia sinh
hoạt nhà thờ th́ 1 phần 50 bỏ nhau; và các cặp
lấy nhau theo Giáo Hội rồi cùng nhau tham dự Thánh Lễ
và cầu nguyện chung th́ 1 phần 1429 bỏ nhau.
(bài này đă được
phổ biến trên Bản Tin Song Nguyền của Chương
Tŕnh Thăng Tiến Hôn Nhân 1/1999, và Tam Cá Nguyệt San Vào Đời,
6/2000)