10
CỎ LÙNG
TRONG RUỘNG
Theo chính Lời Chúa Giêsu, Đấng
thường lấy các dụ ngôn khác nhau là “những
sự dưới đất” để mạc khải
“những sự trên trời” (Jn.3:12), đă giải thích
về ư nghĩa dụ ngôn “cỏ lùng trong ruộng”
(Mt.13:24-30) như sau:
·
“Kẻ gieo
giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian;
hạt giống tốt là công dân Nước Trời;
cỏ ḷng vực là thành phần thuộc về tên gian ác.
Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma qủi; mùa gặt là tận
thế và nhân công là các thiên thần” (Mt.13:38).
Thực tế hiện nay cho
thấy, lịch sử loài người chưa bao giờ
có hiện tượng “cỏ lùng trong ruộng” um tùm
rậm rạp như bây giờ, ngay trước ngưỡng
cửa của “ngàn năm thứ ba đang đến” này, đến
nỗi, đám cỏ lùng ấy thật sự đă và đang
làm chết nghẹt biết bao nhiêu là “hạt giống
tốt”:
·
“Họ sẽ
tống giam các con, sẽ hành hạ và sát hại các con... và
v́ có lắm thứ gian ác mà ḷng mến nơi nhiều
người sẽ trở nên nguội lạnh”
(Mt.24:9,12).
Phải chăng hiện
tượng tràn lan khủng khiếp “cỏ lùng trong
ruộng” này là dấu hiệu của thời tận
thế, như Chúa Giêsu đă báo trước cho các môn đệ
của Người biết:
·
“Có lắm kẻ
sẽ đến mạo danh Thày xưng rằng: ‘Ta là Đức
Kitô!’ và sẽ lừa đảo (deceive) nhiều người”
(Mt.24:5),
“Các tiên tri giả sẽ
nổi lên rất đông (great numbers) để lừa được
(mislead) nhiều người” (Mt.24:11)?
Dù
không dám dứt khoát khẳng định hiện tượng
“cỏ lùng trong ruộng” đă làm mọc lên loại
“văn hóa tử vong” ngày nay thực sự là dấu báo
hiệu loài người đă tới thời tận
thế, nhưng cũng không ai phủ nhận được
những quái đản chưa từng có trong lịch
sử loài người và lịch sử Giáo Hội do
hiện tượng này gây ra, về cả phẩm lẫn
lượng của nó: về lượng th́ “rất
nhiều” (Mt.24:11) và về phẩm th́ “lừa được
nhiều người” (Mt.24:11, nhất là chữ “mislead” ở
câu 24), đúng như Lời Chúa Giêsu báo trước trong
Phúc Âm trên đây.
Theo nhận định
của văn kiện mang tựa đề “Các Giáo Phái
hay Các Trào Lưu Tân Giáo” (Sects or New Religious Movements) do
Văn Pḥng Phát Động Hiệp Nhất Kitô Giáo của
Ṭa Thánh Rôma phổ biến ngày 3 tháng 5 năm 1986, một
văn kiện được Văn Pḥng Dịch Vụ
Phát Hành và Phát Động của Hội Đồng Giám
Mục Hoa Kỳ phổ biến (Publication No. 100), th́:
·
“Hầu hết
mọi giáo hội địa phương đều
thấy nổi lên và phát triển nhanh chóng đủ
mọi loại trào lưu, nhóm hội và hoạt động
về tôn giáo hay ngụy giáo (pseudoreligious) mới. Hiện
tượng mà hầu hết các hồi đáp viên (được
tham khảo) cho đó
là một vấn đề nghiêm trọng, c̣n một
số khác lại cho là một vấn đề báo động
(alarming matter); chỉ ở một số rất ít xứ
sở dường như không có mà thôi” (chẳng
hạn như ở các xứ sở toàn ṭng Hồi Giáo)
(1.2).
(những chỗ
dịch được in đậm trong bài là do ư người
viết để nhấn mạnh những ư điểm
cần)
Trong Tông Huấn “Giáo
Hội Tại Mỹ Châu” (Ecclesia in America) là văn
kiện đúc kết cuộc Thượng Hội Giám
Mục Mỹ Châu được Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II công bố ngày 22-1-1999 tại Mexico City, Trung Mỹ,
chẳng những đề cập đến việc lan
tràn của hiện tượng “cỏ lùng trong ruộng” mà
c̣n cho thấy tính cách lấn át của “cỏ lùng” đối
với “lúa” nữa:
·
“Hoạt động
mộ giáo (proselytizing) của các giáo phái và các nhóm tân giáo ở
nhiều phần đất Mỹ Châu là một trở
ngại trầm trọng cho công cuộc truyền bá phúc âm.
Chữ ‘mộ giáo’ (proselytism) có ư nghĩa tiêu cực
khi nó nói lên đường lối chiếm đoạt
tín đồ ngược lại với tự do
của những ai nghe họ giảng đạo...” (5)
(Tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 27-1-1999)
Trong bản Instrumentum Laboris
là văn kiện đúc kết để làm tài liệu
chính thức cho cuộc Thượng Hội Giám Mục Úc
Châu trong việc bàn định và giải quyết các
vấn đề tại địa lục của ḿnh,
cũng công nhận tính cách tràn lan và lấn át này của
hiện tượng “cỏ lùng trong ruộng” rất khó
phân biệt và đối phó này:
·
“Việc phát
triển các trào lưu tân giáo ngoài Giáo Hội, cả ở
các đảo cũng như ở Papua New Guinea, là
một hiện tượng trở thành một trong
những thách đố cả thể đối với các
Giáo Hội địa phương ở Úc Châu ngày nay. Các
bản trả lời cho thấy mối quan tâm của các
vị Giám Mục về việc các trào lưu tân giáo ngoài
Giáo Hội này đang phân rẽ các cộng đồng và đang
dẫn người ta xa ĺa Giáo Hội... Vẫn c̣n
phải tốn nhiều công phu mới biết được
các tôn giáo này cũng như mới t́m ra được
chữ nghĩa xứng hợp để mô tả chúng
một cách xác đáng. Người Công Giáo thường
không phân biệt chắc chắn giữa nhóm này với nhóm
khác...” (30)
(Tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 2-9-1998)
Chính việc lan tràn nhanh chóng
của “cỏ lùng trong ruộng” hiện nay cũng đủ
chứng tỏ phẩm chất rất thời trang của
hiện tượng này, một phẩm chất có khả
năng thu hút đến “lừa được nhiều
người”, một phẩm chất được
bản Instrumentum Laboris của Thượng Hội
Giám Mục Úc Châu diễn tả như sau:
·
“Thường
thấy họ (các
trào lưu tân giáo ngoài Giáo Hội) tỏ ra có cảm t́nh nồng nàn, thông
cảm, nhiệt t́nh và săn đón trong một nhóm nhỏ
gắn bó chặt chẽ với nhau, một cảm
nghiệm mà có những người Công Giáo thấy như
bị thiếu hụt nơi cộng đoàn của ḿnh. Âm
nhạc, ca hát, nhảy múa, giảng dạy hùng hồn và nói
tiếng lạ đóng một vai tṛ quan trọng trong
việc thu hút người ta tham gia vào các đạo này,
nhất là đám trẻ. Các tôn giáo ấy thường
lấp đầy cái trống rỗng của cảm xúc mà
người ta đang t́m kiếm cho ư nghĩa cuộc đời…
Các người Công Giáo, v́ bị trục trặc với
vị linh mục hay với nhân viên mục vụ, hoặc
bởi t́nh trạng hôn nhân bất b́nh thường của
ḿnh, đôi khi cũng bị lôi cuốn theo họ. Những
đạo này dùng Thánh Kinh để làm cho người thành
tín vô tư lo sợ đến phần rỗi của ḿnh.
Họ chú ư tới việc thăm viếng từng gia đ́nh,
thường lợi dụng vào những lúc con người
đang gặp phải phiền sầu, bệnh tật hay
khủng hoảng bản thân. Họ tỏ ra tích cực
trong việc đối xử với người ta và làm
cho người ta cảm thấy tự nhiên sinh hoạt
trong cộng đoàn của ḿnh” (đoạn 30).
“T́m cầu các giải đáp:
Trong những trường hợp phức tạp và bối
rối, theo tự nhiên người ta đi t́m kiếm
những giải đáp và giải quyết. Các giáo phái tỏ ra: có
những giải đáp giản dị và tiện lợi
(ready-made) cho các vấn đề và trường hợp phức
tạp;… có một thứ thần học thực tiễn
(pragmatic theology), một thứ thần học lợi
lộc… (2.1.2)
“T́m cầu viên trọn
thể: Nhiều người cảm thấy tách ĺa với
bản thân ḿnh, với người khác, với văn hóa và
môi sinh của họ. Họ cảm thấy đổ vỡ.
Họ bị tổn thương bởi cha mẹ hay
thầy cô, bởi Giáo Hội hay xă hội… Họ cần được
chữa lành, kể cả về phần xác… Các giáo phái tỏ ra: … có
thể chữa lành thể lư và tâm linh; có thể
giải quyết vấn đề nghiện hút và nghiện
ngập… (2.1.3)
“T́m cầu văn hóa
bản:… Nơi nhiều xứ sở thuộc Thế Giới
Đệ Tam, xă hội thấy ḿnh bị tách ĺa rất
nhiều với văn hóa cổ truyền, với các giá
trị xă hội và tôn giáo… Các
giáo phái tỏ ra: có nhiều chỗ cho tôn giáo hay
văn hóa cổ truyền, … có lối nguyện cầu và
giảng dạy gần gũi hơn với các tính chất
văn hóa cũng như với các khát vọng của
người ta. (2.1.4)
“Nhu cầu cần được
biết đến, được nổi nang: Người ta cảm
thấy cần vượt ra khỏi t́nh trạng vô danh
tiểu tốt, cần làm nên cho ḿnh một cá biệt,
cần cảm thấy nổi nang cách náo đó chứ không
phải chỉ là một con số hay chỉ là một
phần tử mất hút trong đám đông… Các giáo phái tỏ ra: quan tâm đến
cá nhân; có các cơ hội để thi hành thừa tác
vụ và vai tṛ lănh đạo, cơ hội để tham
gia, chứng tỏ, phát biểu… (2.1.5)
“T́m cầu siêu việt
tính: Việc t́m cầu này nói lên một nhu cầu
tâm linh sâu xa, một động lực thần hứng
trong việc t́m kiếm một cái ǵ đó vượt ra ngoài
cái cụ thể, trực tiếp, quen thuộc, khả
chế và vật chất, để t́m giải đáp cho
những vấn nạn tối hậu của đời
sống, cũng như để tin vào một điều
ǵ đó có thể làm đổi thay cuộc sống con
người một cách đặc biệt… . Các
giáo phái tỏ ra:… có thể giúp học hiểu Thánh Kinh;
hiểu biết về ơn cứu độ; có các
tặng ân Thần Linh; giúp suy niệm… (2.1.6)
“T́m cầu linh hướng:
Thiếu sự nâng đỡ của cha mẹ trong gia đ́nh
hay thiếu khả năng lănh đạo, kiên nhẫn và
tự nguyện dấn thân về phía các vị lănh đạo
giáo hội hay các nhà giáo… . Các giáo phái tỏ ra: có
thể hướng dẫn bằng khả năng lănh đạo
tài khéo vững vàng. Con người của vị sư
phụ, của nhà lănh đạo, của cố đạo
(guru) đóng vai tṛ quan trọng trong việc làm cho các đồ
đệ cảm phục… (2.1.7)
“T́m cầu nhăn quan:
Thế giới ngày nay là một thế giới liên
thuộc của hận thù và tương khắc, của vơ
lực và sợ bị hủy diệt. Người ta
cảm thấy lo sợ về tương lai; họ
thường cảm thấy chán chường, vô dụng,
vô vọng và bất lực. Họ t́m kiếm những
dấu hy vọng, t́m một lối thoát. Một số
người có ước vọng, cho dù mơ hồ, trong
việc kiến tạo nên một thế giới khá hơn…
. Các giáo phái tỏ ra: cho thấy một nhăn quan mới
về bản thân, về nhân loại, về lịch
sử, về vũ trụ. Họ hứa hẹn khởi
sự cho một tân thời, một tân kỷ nguyên.
(2.1.8)
“T́m cầu dự
phần và tham gia:… Nhiều người t́m cầu
chẳng những cảm thấy cần một nhăn quan
trong xă hội của thế giới hiện nay cũng
như hướng về tương lai, họ c̣n muốn
dự phần vào việc quyết định, phác họa
và thực hiện nữa… . Các giáo phái tỏ ra: cho
thấy họ có một sứ mệnh kiến tạo nên
một thế giới khá hơn, có một ơn gọi toàn
hiến, một tham phần ở hầu hết các lănh
vực. (2.1.9)
“Tóm lại, người ta
có thể nói rằng, các giáo phái tỏ ra sống những
ǵ họ tin tưởng, với một xác tín (thường
có sức hấp dẫn) mănh liệt, nhiệt t́nh và
dấn thân; họ chịu khó giao tiếp với người
chung quanh một cách nống hậu, thân t́nh, và trực
tiếp kéo cá nhân ra khỏi t́nh trạng khuất dạng,
kêu mời tham phần, sáng tạo, trách nhiệm, dấn
thân…, họ thực hiện việc tận t́nh liên lạc
bằng nhiều lần giao tiếp, viếng thăm,
tiếp tục nâng đỡ và hướng dẫn. Họ
giúp vào việc cắt nghĩa lại cảm nghiệm
của người ta, việc tái thẩm định các
giá trị của người ta, và việc giải
quyết những vấn đề tối hậu bằng đường
lối bao gồm hết mọi sự… Tóm lại,
họ tỏ ra cho thấy họ là một giải đáp
duy nhất, là tin mừng trong một thế giới
biến động”.
Trong các giáo phái (sects) từ
trước đến nay, điển h́nh nhất, ghê gớm
nhất, trắng trợn nhất và kinh hoàng nhất,
phải kể đến Đạo Satan (Satanism).
Ông tổ của đạo này là Aleister Crowley (1875-1947)
người Anh quốc, kẻ xưng ḿnh là một “con
mănh thú” trong Sách Khải Huyền, với chủ
trương “tất cả lề luật là ở
tại làm điều ḿnh muốn”, và đệ nhất
tông đồ của đạo này là Anton LaVey bên Hoa
Kỳ, nhân vật đă thành lập “giáo hội Satan”
và viết cuốn “kinh thánh Satan” với những tuyên
ngôn như: “Satan tiêu biểu cho thỏa măn chứ không
phải cho cầm hăm (1); Satan tiêu biểu cho hiện sinh chứ
không phải cho mơ mộng siêu linh hăo huyền (2); Satan
tiêu biểu cho báo oán hận thù chứ không phải cho
việc ch́a cả má kia (5); Satan tiêu biểu cho tất
cả những ǵ là tội lỗi làm thỏa măn về
thể chất, tâm thần hay cảm xúc (8)”, và chủ
trương: “Tiếp tục cuộc phản loạn ma
quái chống lại Thiên Chúa và bất cứ những ǵ là
thần linh (1); Trong tất cả những ǵ Satan đă
chọn lựa để loại trừ th́ trên hết
phải loại trừ mọi ảnh hưởng của
Thiên Chúa hiện diện nơi bất cứ một nơi
chốn hay một khía cạnh nào (4)”.
Và trong các trào lưu tân giáo
(new religious movements) từ trước đến nay, khó
thấy nhất, nguy hiểm nhất và ảnh hưởng
nhất phải kể đến Phong Trào Thời Mới
(New Age Movement), một phong trào tràn lan từ
thập niên 1960 cùng thời với Công Đồng Vaticanô
II, một phong trào tân giáo có thể nói đă được
phát động bởi Alice Anne Bailey (1880-1949), một chuyên
viên thần tri (theosophist) và mật tri (occultist). New Age
Movement là một thứ rượu mới (Tây
phương) được đựng trong b́nh cũ (Đông
phương), ở chỗ, phong trào này có khuynh hướng
triết lư theo khoa tâm lư nhân bản hiện đại
lại hoàn toàn ḥa hợp với niềm tin của Aán Giáo
và Phật Giáo cổ kính. New Age Movement chủ trương đồng
nhất tính (monism): tất cả mọi sự
hiện hữu kể cả Thiên Chúa đều là một
và như nhau; phiếm thần (pantheism): v́ tất
cả mọi sự hiện hữu đều là một và
như nhau nên mọi sự hiện hữu đều là
thần linh, đều là Thiên Chúa, đều có thần
tính, nên không cái này hơn kém cái kia; đồng điệu
tính (syncretism): đạo nào cũng là đạo, đạo
nào cũng dạy ăn ngay ở lành, nên theo đạo nào
cũng được rỗi, đường nào cũng
dẫn đến Rôma; ngộ thức (gnosticism): con
người được giải thoát và biến đổi
là nhờ ở kiến thức giác ngộ của ḿnh,
một kiến thức chỉ dành cho một số ít
người.
Tuy nhiên, giáo phái nào th́ giáo phái,
trào lưu tân giáo nào th́ trào lưu, dù họ có làm được
phép lạ, như Chúa Giêsu báo trước trong Phúc Âm Thánh
Mathêu, đoạn 24 câu 24: “Các ngụy kitô và tiên tri
giả sẽ xuất hiện, làm nhiều dấu lạ và
sự lạ cả thể đến nỗi lừa được
cả thành phần được chọn”, th́ cũng
theo lời Chúa Giêsu kêu gọi: “đừng tin” (Mt.24:26).
Thế nhưng, làm thế nào để có thể “coi chừng,
đừng để ai lừa được” (Mt.24:4)
như lời Chúa Giêsu cảnh giác, nếu không phân biệt được
đâu là thật đâu là giả, tức làm sao để
có thể điểm mặt “các ngụy kitô”, làm sao
nhận ra chân tướng của “các tiên tri giả”. Trong
cuốn “Thời Điểm Maria: Hiệp Sĩ Trái Tim
Mẹ” (Cao-Bùi, 1998, trang 118-119), người viết đă
chia sẻ như sau:
·
Nếu “tinh
thần nào công nhận Chúa Giêsu Kitô đến trong xác
thịt là tinh thần thuộc về Thiên Chúa, c̣n tinh
thần nào không nhận biết Người (đến
trong xác thịt) là tinh thần không thuộc về Thiên Chúa.
Tinh thần như thế là tinh thần phản kitô”
(1Jn.4:1-2), th́ thực tế cho thấy, và càng ngày càng cho
thấy, “tinh thần phản kitô” ở chỗ không
chấp nhận “Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt” được
tỏ hiện rơ ràng qua bốn dấu hiệu sau đây:
Dấu hiệu thứ
nhất của “tinh thần phản kitô” là việc không tin
tưởng, khinh thường hay xúc phạm đến
“Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt” đang hiện diện
thực sự trong Bí Tích Thánh Thể, bằng chính Ḿnh Thánh
và Máu Thánh của Người.
Dấu hiệu thứ hai
của “tinh thần phản kitô” là việc không tin tưởng,
bất tuân phục hay chống đối “Chúa Giêsu Kitô đến
trong xác thịt” nơi quyền bính Giáo Hoàng, một con người
bằng xương bắng thịt kế vị Thánh Phêrô,
để đại diện Chúa Kitô chăn dắt đoàn
chiên của Người trên thế gian.
Dấu hiệu thứ ba
của “tinh thần phản kitô” là việc không tin tưởng,
khinh thường và bất kính Đức Maria, Mẹ Thiên
Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội Trọn Đời Trinh Nguyên,
người nữ đă thụ thai và hạ sinh “Chúa Giêsu
Kitô đến trong xác thịt”.
Dấu hiệu thứ
bốn của “tinh thần phản kitô” là việc khinh
bỉ (như kỳ thị), giầy đạp (như ly
dị) hay hủy hoại (như phá thai) tất cả
những ǵ thấp hèn (như nghèo khổ), yếu kém
(như thai nhi) hay bất hạnh (như tật nguyền)
là thân phận sống đă được “Chúa Giêsu Kitô đến
trong xác thịt” mặc lấy (x.Phil.2:7-8; 2Cor.8:9) để
có thể đồng hóa ḿnh với “các người anh em bé
mọn nhất của (Người)” (Mt.25:40,45) và cũng để
nhờ đó “cứu lấy những ǵ trầm hư”
(Lk.19:10).
Tuy nhiên, kinh nghiệm cho
thấy, dù có đủ các dấu hiệu thứ nhất,
thứ ba hay thứ bốn trên đây, nếu thiếu
dấu hiệu cốt yếu thứ hai là ḷng tuân phục
Huấn Quyền và sùng kính Đức Thánh Cha th́ cũng “hăy
coi chừng, đừng để ḿnh bị lừa đảo”
(Mt.24:4).
Trước hết, đối
với dấu hiệu thứ nhất, không thể nào
một người tôn sùng Chúa Giêsu Thánh Thể mà lại
không hiệp nhất với Giáo Hội, mà lại công khai
chỉ trích hay đả phá Giáo Quyền và Đức Thánh
Cha, như Lá Thư Hoa Kỳ số 14 (20-8-1992) và 23
(1-6-1993) của một giáo dân Việt Nam ở San Dimas Nam
California, hay như Tiếng Loa Cảnh Báo 1 (11/98) và 2
(12/98) của một giáo dân Việt Nam khác ở San Jose
Bắc California, cả hai phổ biến đều có
nội dung hay những mục chống lại Thánh Lễ
canh tân theo Công Đồng Chung Vaticanô II.
Thứ đến, đối
với dấu hiệu thứ ba, không thể nào tôn sùng
Mẹ Maria mà lại mất ḷng tin tưởng Huấn
Quyền và Vị Đại Diện Con Mẹ, như
trường hợp chính người viết đă gặp
trong một lần được mời đến tham
dự buổi đọc kinh ngày Chúa Nhật với
một nhóm hơn 10 người, tại nhà một người
giáo dân ở giáo phận Orange Nam California. Sau cả
tiếng đồng hồ mới đọc xong một
chuỗi 50 Kinh Mân Côi rất sốt sắng, với
những bài hát xen kẽ, kèm theo cử chỉ giang tay và
phục ḿnh xuống đất, th́ có một bà già (chứ
không phải trẻ), trong lúc chia sẻ sống đạo đă
phát biểu thế này: “Giáo Hội nói ǵ th́ nói cũng tùy
cái mà tin”.
Sau nữa, đối với
dấu hiệu thứ bốn, không thể nào bênh vực
luật tự nhiên, bênh vực sự sống con người
mà lại chống đối Huấn Quyền và Đức
Giáo Hoàng về cùng một vấn đề, như trường
hợp của tờ A Voice Crying in the Wilderness số 1
(mà người viết nhận được biếu
không vào giữa năm 1998), phát xuất từ Most Holy Family
Monastery ở New York miền Đông Bắc Hoa Kỳ, cho
rằng Công Đồng Chung Vaticanô II, trong Hiến Chế Vui
Mừng và Hy Vọng, cũng như Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II, trong Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống,
đă gây ra việc ngừa thai qúa mức, v́ cả Công Đồng
lẫn Đức Thánh Cha đă cổ động việc
ngừa thai nhân tạo: “Vatican II and John Paul II have promoted
NFP (Natural
Family Planning)”
Sau hết, đối với
dấu hiệu thứ hai, không thể nào tỏ ra bênh
vực Giáo Hội mà lại quay ra đả pháchính Giáo
Hội cũng như Đấng Đại Diện Chúa Kitô
chăn dắt Giáo Hội Chúa trên trần gian, bằng
những công khai tuyên bố “Giáo Hoàng Mất Đức
Tin”, trong đó có “Giáo Hoàng Phaolô VI” và “Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II”, như cuốn Trước Cơn Giông
Tố (1995) của chính người giáo dân Công Giáo
Việt Nam phổ biến tờ nguyệt san Tiếng Loa
Cảnh Báo trên đây, hay như bản kết án “101
lạc thuyết của Giáo Hoàng Giả Gioan Phaolô II”,
cũng của vị tu sĩ tác giả chủ
trương tờ A Voice Crying in the Wilderness trên đây.
Để giúp cho con cái ḿnh có
thể nhận ra những sai trái hay mặt trái của thành
phần “phản kitô”, cũng như để bảo
vệ họ khỏi bị “cỏ lùng trong ruộng” tân thời
lấn át, từ hậu bán thế kỷ 19, Giáo Hội đă
lần lượt ban hành các văn kiện chính thức sau
đây:
1.
Ngày 8/12/1864, Đức
Piô IX đă công bố một Bản Tổng Kê
(syllabus) 80 điều sai lầm của thời đại
bấy giờ về đủ mọi thứ (như
khuynh hướng phiếm thần, tự nhiên, duy lư, khô đạo
v.v.)
2.
Ngày 20-4-1884, Đức
Lêô XIII đă ban bố Thông Điệp Humanum Genus
về Hội Kín Tam Điểm.
3.
Ngày 3/7/1907, Đức
Piô X đă ban hành Thông Điệp Pascendi Dominici Gregis
về các giáo điều của thành phần tân tiến
thuyết, trong đó ngài bài bác và lên án 65 điều
sai lầm của họ trong bản Bản Tổng Kê ở
cuối bức thông điệp này.
4.
Ngày 19/3/1937, Đức
Piô XI đă ban hành Thông Điệp Divini Redemptoris
về những sai trái và tai hại của chủ nghĩa
cộng sản vô thần.
5.
Ngày 12/8/1950, Đức
Piô XII đă ban hành Thông Điệp Humani Generis về một
số ư nghĩ sai lầm đe dọa tín lư Công Giáo.
6.
Ngày 25/7/1968, Đức
Phaolô VI đă ban hành Thông Điệp Humanae Vitae về sự
sống con người qua việc truyền sinh và
phương pháp ngừa thai tự nhiên.
7.
Ngày 24/6/1973, Thánh
Bộ Tín Lư Đức Tin ban hành Tuyên ngôn Bảo Vệ
Tín Lư Công Giáo về Giáo Hội chống lại một
số sai lầm của ngày hôm nay.
8.
Ngày 28/6/1974, Thánh
Bộ Tín Lư Đức Tin ban hành Tuyên ngôn về việc
T́m Cách Phá Thai.
9.
Ngày 29-12-1975, Thánh
Bộ Tín Lư Đức Tin ban hành một Tuyên ngôn về
một số vấn đề liên quan đến Luân Lư
Tính Dục .
10. Ngày 6/8/1984, Thánh Bộ Tín Lư Đức
Tin ban hành bản Hướng dẫn về một số
lănh vực của “Thần học giải phóng”.
11. Ngày 22/3/1986, Thánh Bộ Tín Lư Đức
Tin ban hành một bản Hướng Dẫn về T́nh
Trạng Tự Do Kitô Giáo và Vấn Đề Giải
Phóng.
12. Ngày 6/8/1993, Đức Gioan
Phaolô II ban hành Thông Điệp Veritatis Splendor “để
làm sáng tỏ một số khía cạnh tín lư quan trọng đang
thực sự bị khủng hoảng … một số
vấn đề nồng cốt về giáo huấn luân lư
của Giáo Hội” (đoạn 5)
13. Ngày 25/3/1995, Đức Gioan
Phaolô II ban hành Thông Điệp Evangelium Vitae “để
tái xác định một cách chính xác và cương quyết
giá trị của sự sống con người và tính
cách bất khả xâm phạm của nó” (đoạn 5)
14. Ngày 14/9/1998, Đức Gioan Phaolô
II ban hành Thông Điệp Fides et Ratio “nhấn mạnh đến
đề tài về chính chân lư cũng như
về nền tảng của nó liên quan tới đức
tin” (đoạn 6).
Đúng thế, từ thế
kỷ 19 mới có hiện tượng “cỏ lùng trong
ruộng” “nổi lên rất nhiều” và “lừa được
nhiều người” chưa bao giờ thấy như
vậy. Thế nhưng, nếu “kẻ gieo giống
tốt là Con Người. Ruộng là thế gian; hạt
giống tốt là công dân Nước Trời; cỏ ḷng
vực là thành phần thuộc về tên gian ác. Kẻ thù
gieo cỏ lùng là ma qủi; mùa gặt là tận thế và
nhân công là các thiên thần” (Mt.13:38), th́ ngay từ khi mới
có con người và mới có Giáo Hội nạn “cỏ lùng
trong ruộng” đă xuất đầu lộ diện
rồi. Không phải từ khi mới có con người, đă
không có một Cain lấn át Abel hay sao (xem Khởi Nguyên
4:1-16)? Rồi cũng không phải hay sao, từ khi mới
có Giáo Hội đă không có cấm cách (xem Tông Vụ 4:1-22;
5:17-42), tử đạo (xem Tông Vụ 7:1-60) và bách hại
(xem Tông Vụ 8:1-3), nhất là đă có các lạc giáo tuyên
truyền sai lầm trong thời các Giáo Phụ Hội Thánh,
rồi tiếp tục cứ thế “cả hai mọc lên
cho tới mùa gặt” (Mt.13:30), phải chăng đó chính là
mùa Giáo Hội nỗ lực hướng về mục tiêu Đại
Kết sau Công Đồng Chung Vaticanô II cho tới nay?
Thế nhưng, sở dĩ
từ thế kỷ 19 mới có nạn “cỏ lùng trong
ruộng” “nổi lên rất nhiều” như vậy là v́ tới
thời điểm của nó, thời điểm Giáo
Hội phát triển đă đến lúc như “lúa lên
mạ và trổ bông” (Mt.13:26). Tuy biết rằng “cỏ
lùng trong ruộng” có thể nguy hại đến “lúa”, song
theo ư định vô cùng khôn ngoan mầu nhiệm của ḿnh,
“người gieo hạt giống tốt trong ruộng
của ḿnh” (Mt.13:24) vẫn tỉnh bơ “ngủ” (Mt.13:25),
dù biết rằng “đó là do kẻ thù làm” (Mt.13:28), lại
c̣n không cho phép nhân công “nhổ cỏ” (Mt.13:29) trước
khi “tới mùa gặt”, là v́ ông không muốn để
việc diệt cỏ lùng lây hại đến cả “lúa”
(xem Mt.13:29), một tai hại c̣n tệ hơn cả sự
có mặt của “cỏ lùng trong ruộng” cùng với
hoạt động phá hoại của nó. Bởi v́, nhờ
“cỏ lùng trong ruộng” mà “lúa” mới có cơ hội
tốt cũng như mới càng được dịp
sống đức tin chân chính và sáng tỏ hơn, một yếu
tố thiết yếu để hoàn thành sứ vụ tân
phúc âm hóa trong ngàn năm thứ ba, đúng như lời Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông Huấn “Giáo Hội tại
Mỹ Châu” trong khoản 73 mang tựa đề “Thách Đố
của Các Giáo Phái (sects)“sau đây:
·
“Hơn bao giờ
hết, tất cả mọi tín hữu cần phải
tiến từ đức tin thói quen hầu như chỉ được
bảo tồn nhờ mối tương quan xă hội, đến
đức tin ư thức và tự sống. Việc canh tân đức
tin bao giờ cũng là đường lối tốt
nhất để dẫn người khác về với
Chân Lư là Chúa Kitô”.
(Tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 27-1-1999)
(Bài trên đây đă được
phổ biến trên Nguyệt San Dân Chúa Mỹ Châu 9/1999)