12
MÙA XUÂN
CỨU RỖI
N |
ếu Năm Thánh 2000 là Thời
Điểm Hồng Ân của Thiên Chúa cho riêng Giáo Hội Chúa
Kitô và qua Giáo Hội cho chung thế giới loài người
th́ Năm Thánh 2000 cũng có thể nói là Giao Thời
giữa Mùa Đông Lịch Sử và Mùa Xuân Cứu Rỗi.
T |
hật thế, nói đến
mùa đông, theo hiện tượng thời tiết thiên
nhiên vẫn xẩy ra từ tạo thiên lập địa
cho tới nay, là nói đến một thời gian lạnh
giá và tối tăm, hai dấu hiệu tiêu biểu cho
chết chóc. Lạnh giá không là dấu hiệu tiêu biểu
cho chết chóc là ǵ nơi một con người đang
hấp hối chết, một cái lạnh từ chân lên đến
đầu, cho tới khi toàn thân lạnh ngắt và trở
thành một tử thi vô hồn? Tối tăm cũng không
phải là dấu hiệu tiêu biểu cho chết chóc là ǵ
khi con người đă trở thành một tử thi vô hồn
th́ hoàn toàn sẽ không c̣n biết ǵ nữa, không c̣n biết
cử động tự nhiên dù chỉ theo bản tính
triển sinh, hay không c̣n biết phản xạ tự
vệ theo bản năng sinh tồn?? Thế giới ngày
nay, trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ
ba đang đến, cũng không đang trải qua một
Mùa Đông Lịch Sử là ǵ, tức đang trải qua một
thời gian lịch sử có những triệu chứng lạnh
giá và tối tăm khủng khiếp về sinh hoạt
tâm linh cũng như đời sống luân lư nơi con người,
một hiện tượng được Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II nhận định và đặt tên cho là “văn
hóa tử vong” (culture of death)???
Đúng vậy, thế giới
con người ở vào cuối thế kỷ 20 cũng là
cuối thiên niên thứ hai này đang sống trong Mùa Đông
Lịch Sử của “văn hóa tử vong”, v́ ḷng người
đă thực sự trở nên lạnh giá và tối
tăm hơn lúc nào hết và hơn bao giờ hết
trong gịng suốt lịch sử của ḿnh. Ḷng người
đă không càng ngày càng trở nên lạnh giá là ǵ, về đạo,
ơn gọi tu tŕ càng ngày càng ít đi, mà hậu qủa là
nhiều nhà ḍng hay chủng viện bỏ trống, và
tỷ lệ dự lễ Chúa Nhật hằng tuần
giảm xuống tới độ thậm tệ, mà
hậu qủa là nhiều nhà thờ đă bị bỏ không
v.v.; về đời, t́nh nghĩa vợ chồng không c̣n nồng
nàn nóng sốt nữa, mà hậu qủa là tỷ lệ ly
dị tại các nước Aâu Mỹ đă lên tới
cả 70%, và t́nh mẫu tử cũng không c̣n “bao la như
biển thái b́nh” nữa, mà hậu qủa là mỗi năm
trên toàn thế giới có cả hai triệu thai nhi bị
chính mẹ ḿnh thảm sát bằng việc phá thai theo chủ
trương “pro choice” của ḿnh v.v. ? Ḷng người đang
sống trong Mùa Đông Lịch Sử của “văn hóa
tử vong” cũng không tăm tối là ǵ khi hùa nhau, qua
việc ban các khoản luật phi nhân bản phản luân
lư, tôn thờ “con ḅ vàng” (Ex. 32:4) duy nhân bản thay “Thiên Chúa
chân thật duy nhất” (Jn.17:3), ở chỗ biến
sự dữ thành sự lành (như luật cho phép ly
dị), tội lỗi thành quyền lợi (như luật
cho phép phá thai)?
Nhận định này cũng
là nhận định được chính Vị Chủ
Chiên Tối Cao đương kim của Giáo Hội Công Giáo
hoàn vũ chia sẻ với 8000 phần tử của phong
trào “pro-life” Ư ngày 20-5-1998:
·
“Việc biến đổi
tội ác thành quyền lợi thảm khốc này là một
dấu hiệu băng hoại khủng khiếp của xă
hội”.
(Tuần
san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10-6-1998, trang 6,
đoạn 3)
Nếu thực tại của
hiện tượng chết chóc về thể lư nơi loài
người là việc phân ly (separation) giữa hồn
và xác thế nào, và nếu hậu qủa của hiện tượng
chết chóc nơi mọi sinh vật hữu h́nh là băng
hoại (corruption) ra sao, th́ “văn hóa tử vong” cũng
cho thấy hiện tượng phân ly và băng hoại
về sinh hoạt tâm linh cũng như đời sống
luân lư của con người văn minh hầu như tột
đỉnh ngày nay như thế. Thế nhưng, sở
dĩ có hậu qủa băng hoại về đời
sống luân lư của xă hội loài người (như
hiện tượng hợp pháp hóa quyền ly dị, phá
thai, đồng tính luyến ái, hôn nhân đồng tính, thụ
thai ngoại nhiên, trợ tử nhân đạo v.v.), là v́
nguyên nhân phân ly nơi sinh hoạt tâm linh của con người,
như được các vị Giáo Hoàng thời đại
nhận định như sau:
Đức Piô XII đă báo động
trong sứ điệp truyền thanh ngày 26-10-1946 gửi Đại
Hội Giáo Lư Toàn Quốc ở Hoa Kỳ:
·
“Tội lỗi của
thế kỷ này là đánh mất đi ư nghĩa của tội
lỗi”.
Đức Phaolô VI cũng
khẳng định trong Tông Huấn “Evangelii Nuntiandi”
về việc truyền giáo trong thời đại của
chúng ta, ban hành ngày 8-12-1975, đoạn 20, thế này:
·
“Việc phân
rẽ Phúc Aâm khỏi văn hóa thực sự là một
thảm kịch của thời đại chúng ta”.
Đức Gioan Phaolô II, trong
Thông Điệp “Rạng Ngời Chân Lư”, ban hành ngày 6-8-1993, đoạn
88, đă đi sâu hơn vào vấn đề như sau:
·
“Việc nỗ
lực đặt tự do đối nghịch lại với
chân lư, mà thực ra làm chia ĺa chúng một cách dứt khoát, là
hậu qủa, là biểu lộ và là tổng kết của
một t́nh trạng phân ĺa trầm trọng và phá hoại hơn
nữa trong việc làm cho đức tin chia ĺa khỏi luân
lư. Việc phân ĺa này cho thấy một trong những
mối quan tâm mục vụ bén nhậy nhất giữa trào
lưu tục hóa đang dâng lên ngày nay làm cho qúa nhiều người
thực sự nghĩ và sống ‘như thể không có Thiên
Chúa’”.
Chính v́ thế giới loài người
đang sống trong một Mùa Đông Lịch Sử của
“văn hóa tử vong” như thế mới có một luồng
gió canh tân báo hiệu một Mùa Xuân Cứu Rỗi cho loài người,
như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhận định
trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, ban
hành ngày 10-11-1994, đoạn 18, như sau:
·
“Theo quan điểm
này, chúng ta có thể xác nhận rằng Công Đồng Chung
Vaticanô II là một biến cố quan trọng, nhờ đó,
Giáo Hội bắt đầu sửa soạn trực
tiếp hơn cho cuộc mừng thiên niên thứ ba. Công Đồng
này là một công đồng cũng giống như các công đồng
trước kia, song lại khác hẳn; đó là một công đồng
chú trọng vào mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội của
Người, đồng thời lại vươn ḿnh ra với
thế giới. Thái độ vươn ḿnh ra của Giáo
Hội là một đáp ứng có tính cách phúc âm đối với
những đổi thay trong thế giới này, những đổi
thay bao gồm cả những kinh nghiệm về t́nh
trạng hỗn loạn sâu rộng của thế kỷ
20, một thế kỷ rùng rợn với hai trận Đại
Chiến I và II, với kinh nghiệm về những
trại tập trung cùng với những cuộc tán sát khủng
khiếp. Tất cả những biến cố này đă cứng
tỏ một cách hết sức hùng hồn là thế giới
cần phải được thanh tẩy; nó cần
phải cải thiện lại... Điều mà những
vị giáo hoàng đă hoàn tất trong thời gian và từ thời
gian Công Đồng, qua giáo huấn của các ngài cũng như
qua hoạt động mục vụ của các ngài,
chắc chắn đă đóng góp một cách đáng kể
vào việc sửa soạn cho một mùa xuân mới của
đời sống Kitô giáo, một mùa xuân sẽ được
tỏ hiện nhờ cuộc Mừng Kỷ Niệm Long Trọng,
nếu các Kitô hữu tỏ ra dễ dạy đối với
tác động của Chúa Thánh Linh”.
T |
hế nhưng, Mùa Xuân Cứu
Rỗi này như thế nào và được sửa
soạn ra sao? Nói cách khác, tiến tŕnh thay mùa hay đổi
mùa từ Mùa Đông Lịch Sử đến Mùa Xuân Cứu
Rỗi sẽ diễn tiến thế nào? Mùa Đông
Lịch Sử sẽ được kết thúc ra sao cho Mùa
Xuân Cứu Rỗi xuất hiện, hay chỉ cần Mùa
Xuân Cứu Rỗi đến th́ tự nhiên Mùa Đông
Lịch Sử sẽ qua đi?
Thật ra, tiến tŕnh đổi
mùa kỳ diệu này, đổi từ Mùa Đông Lịch
Sử sang Mùa Xuân Cứu Rỗi, đă được Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi ngay từ đầu giáo
triều của ngài, như ngài chia sẻ với đồng
hương Ba Lan của ḿnh ngày 16-10-1998, dịp họ sang
Rôma mừng kỷ niệm 20 năm làm giáo hoàng của ngài,
như sau:
·
“Khi Tôi bắt đầu
sứ vụ thừa kế Thánh Phêrô của ḿnh trong Giáo Hội
20 năm trước đây, Tôi đă nói: ‘Hăy mở cửa
cho Chúa Kitô’. Hôm nay, trước ngưỡng cửa của
ngàn năm thứ ba, những lời này lại càng đặc
biệt khẩn thiết hơn… Hăy mở rộng cửa
cho Chúa Kitô – những cánh cửa văn hóa, kinh tế, chính
trị, gia đ́nh, đời sống cá nhân cũng như
xă hội… Việc mở cửa cho Chúa Kitô nghĩa là
việc cởi mở con người ḿnh ra cho Người
cũng như cho giáo huấn của Người: để
trở nên các chứng nhân cho đời sống, cho cuộc
khổ nạn và tử nạn của Người. Tức
là hiệp nhất với Người bằng nguyện
cầu và các bí tích thánh. Không liên kết với Chúa Kitô th́
tất cả mọi sự mất ư nghĩa của ḿnh và
biên giới giữa lành dữ sẽ bị mờ mịt”.
(Tuần
san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 25-11-1998, trang
9, đoạn 4)
Nếu, về phía chung loài người,
“không liên kết với Chúa Kitô th́ tất cả mọi
sự mất ư nghĩa của ḿnh và biên giới giữa
lành dữ sẽ bị mờ mịt”, tức nếu không
“mở rộng cửa cho Chúa Kitô – những cánh cửa
văn hóa, kinh tế, chính trị, gia đ́nh, đời
sống cá nhân cũng như xă hội”, Mùa Đông
Lịch Sử b́nh thường sẽ khó ḷng chấm dứt
cho Mùa Xuân Cứu Rỗi xuất hiện. Thế nhưng, cũng
chính v́ thế giới đang sống trong Mùa Đông
Lịch Sử mới cần Mùa Xuân Cứu Rỗi, tức
bóng tối tự ḿnh bao giờ cũng là bóng tối và
sẽ không thể nào tự tan biến nếu ánh sáng không
chiếu soi thế nào, th́ chỉ cần Mùa Xuân Cứu Rỗi
sang là tự nhiên Mùa Đông Lịch Sử sẽ qua đi.
Phải chăng đó là ư nghĩa của lời Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ ngày 6-6-1998 với các vị
giám mục trong Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ
dịp các ngài sang Rôma ad limina đợt 7:
·
“Việc tân phúc
âm hóa, một việc có thể làm cho thế kỷ 21 thành một
mùa xuân của Phúc Âm, là một công việc đối với
toàn thể Dân Chúa, thế nhưng sẽ lệ thuộc
một cách quyết liệt vào thành phần tín hữu hoàn toàn
nhận thức được ơn gọi rửa tội
của ḿnh và trách nhiệm mang tin mừng của Chúa Giêsu
Kitô đến cho văn hóa và xă hội của họ… Điều
kiện trước tiên cho việc tân phúc âm hóa là
việc thực sự làm chứng của Kitô hữu,
thành phần sống bởi Phúc Âm: ‘Ánh sáng của các con
phải chiếu giăi trước mặt con người, để
họ thấy những việc lành của các con làm mà tôn
vinh Cha các con là Đấng ở trên trời’ (Mt.6:15). V́ giáo dân ở ngay tuyến
đầu của công cuộc Giáo Hội truyền bá phúc âm
cho tất cả mọi lănh vực sinh hoạt trần
thế – gồm có công xưởng, các lănh vực khoa học
và y khoa, lănh vực chính trị và lănh vực văn hóa khác
nhau – họ phải đủ cứng cát và đủ giáo
lư ‘để chứng tỏ cho thấy rằng đức
tin Kitô giáo làm nên một đáp ứng duy nhất bảo đảm…
cho các vấn đề và các niềm hy vọng mà cuộc
sống áp đặt lên mỗi người cũng như
xă hội’ (Tông
Huấn Tín Hữu Giáo Dân, 34)”
(Tuần
san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10-6-1998, đoạn
3 và 4)
Thật vậy, truyền bá
phúc âm chính là ngọn gió Thánh Linh thổi vào Mùa Đông
Lịch Sử để “canh tân bộ mặt trái đất”
(đáp ca Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống), kể từ
Thời Điểm Hồng Aân là Năm Thánh 2000 này, như Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II ngày 26-9-1998 chia sẻ với các phần
tử của Hội Ḍng Bác Aùi (Rosminians) dịp họ họp
công đồng tại Rôma như sau:
· “Trong khi Giáo Hội sửa
soạn tiến vào ngàn năm thứ ba Kitô giáo th́ việc
truyền bá phúc âm cho văn hóa là một phần khẩn
thiết của những ǵ Tôi gọi là ‘tân phúc âm hóa’… Thứ
văn hóa nổi bật ngày nay tôn thờ tự do và tự
quyết, trong khi nó lại thường đi theo những đường
lối sai lạc dẫn đến những h́nh thức nô
lệ mới. Văn hóa của chúng ta vật vờ
giữa duy lư và duy tín dưới nhiều dạng thức,
như không thể nào dung ḥa giữa đức tin và lư trí.
Kitô hữu đôi khi cũng bị lôi kéo đi trệch khỏi
việc hủy ḿnh ra không (kenosis) của Thập Giá Chúa
Giêsu Kitô, ưa chuộng những đường lối
kiêu căng, quyền năng và thống trị”.
(Tuần
san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 7-10-1998, trang 6)
Chính v́ chiều hướng
truyền bá phúc âm này mới có các cuộc Thượng Hội
Giám Mục Thế Giới, nhất là các cuộc Thượng
Hội Giám Mục Các Châu (được tổ chức
ngay trong thời gian dọn mừng Thời Điểm Hồng
Ân Năm Thánh 2000), như chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đă nhắc lại trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang
Đến, đoạn 21, như sau:
Việc Giáo Hội truyền
bá phúc âm để đem Mùa Xuân Cứu Rỗi đến
cho Mùa Đông Lịch Sử loài người trong Thời Điểm
Hồng Ân từ Năm 2000 này hoàn toàn hợp với,
nếu không muốn nói là làm hiện thực, ư định
của Vị Chúa Xuân, Đấng “là tất cả trong mọi
sự” (1Cor.15:28), như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă
chia sẻ trong bài Giáo Lư Năm Thánh 2000 đầu tiên ngày
19-11-1997, đoạn 5, như sau:
·
“Thiên Chúa là Chúa của
thời gian không những như đấng hoá công của
thế giới, mà c̣n như tác giả của một cuộc
tân tạo trong Đức Kitô nữa. Ngài nhúng tay vào
việc chữa lành và cải hoá thân phận con người
đă bị tội lỗi đả thương sâu
nặng. Ngài đă dùng nhiều thời gian trong việc
sửa soạn dân Ngài cho quang vinh của cuộc tân tạo
này, đặc biệt qua lời của các vị tiên tri:
‘Này đây, Ta tác tạo trời mới và đất mới;
rồi những cái trước kia sẽ không c̣n được
tưởng nhớ hay gợi nhớ nữa. Hăy vui mừng
và hoan hỉ luôn măi nơi cái mà Ta tạo dựng; này đây,
Ta tạo cho Gialiêm niềm hoan lạc và dân thành niềm vui
sướng’ (Is.65:17-18).
“Lời
hứa của Ngài đă nên trọn 2000 năm trước đây
qua việc hạ sinh của Đức Kitô. Theo ư nghĩa
này, biến cố kỷ niệm mừng là một lời
mời gọi cử hành một kỷ nguyên Kitô giáo như
là một giai đoạn canh tân đối với nhân
loại cũng như đối với vũ trụ. Cho dù
khó khăn và khổ đau, những năm qua đă là 2000
năm ân phúc.
“Những năm tới đây,
cũng thế, ở trong bàn tay của Thiên Chúa. Tương
lai của con người, trước hết là tương
lai của Thiên Chúa, theo nghĩa là chỉ có một ḿnh Ngài
biết nó, sửa soạn cho nó và thực hiện nó. Dĩ
nhiên, Ngài kêu gọi và mời con người cộng tác,
thế nhưng, Ngài không ngừng là ‘vị chủ tŕ’ siêu
việt của lịch sử.
“Nắm vững như
vậy, chúng ta ra tay thực hiện việc sửa
soạn cho Cuộc Mừng Kỷ Niệm. Chỉ một
ḿnh Thiên Chúa biết tương lai sẽ ra sao. Tuy nhiên, chúng
ta biết rằng trong bất cứ một biến cố
nào nó cũng sẽ là một tương lai ân phúc; nó sẽ
là việc hoàn tất ư định yêu thương thần
linh đối với toàn thể loài người cũng như
đối với mỗi một người trong chúng ta. Đó
là lư do tại sao, khi chúng ta nh́n về tương lai, chúng
ta tràn đầy hy vọng và không sợ hăi. Cuộc hành
tŕnh tiến đến việc Mừng Kỷ Niệm là một
cuộc hành tŕnh hy vọng cao vời”.
(Tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 26-11-1997)
Nếu “cuộc hành tŕnh
tiến đến việc Mừng Kỷ Niệm là một
cuộc hành tŕnh hy vọng cao vời”, th́ nó cũng là “một
chặng hành tŕnh của nhân loại hướng về định
mệnh chung cuộc của thời gian”, theo lời Đức
Thánh Cha chia sẻ trong bài Giáo Lư Năm 2000 ngày 10-12-1997, đoạn
4, như sau:
·
“Nếu thời
gian nơi Chúa Kitô được nâng lên tới một mức
độ cao hơn, khi nhận đuợc khả năng
tiến tới vĩnh cửu, th́ có nghĩa là việc ngàn
năm đang tiến tới không được coi như
một tiến bước thuần túy theo gịng thời
gian, mà là như một chặng hành tŕnh của nhân loại
hướng về đinh mệnh chung cuộc của nó.
“Năm
2000 không phải chỉ là cửa qua một ngàn năm khác;
nó là cửa cho cơi trường sinh mà, trong Chúa Kitô, tiếp
tục mở ra trong thời gian để ban cho nó một
hướng đi đích thực cũng như một ư
nghĩa chuyên chính.
“Năm
2000 tỏ bày cho tâm trí và cơi ḷng của chúng ta một cái nh́n
bao rộng hơn liên quan đến tương lai. Thời
gian thường không được tri nhận. Nó dường
như làm con người thất vọng về t́nh
trạng bất ổn của nó, về việc trôi qua nhanh
chóng của nó, khiến cho tất cả mọi sự thành
vô dụng. Thế nhưng, nếu vĩnh cửu đă hội
nhập thời gian, th́ không thể chối bỏ được
cái giá trị phong phú của chính thời gian. Việc trôi đi
dứt khoát không phải là một hành tŕnh tiến đến
hư vô, mà là một hành tŕnh tiến về vĩnh cửu.
“Cái nguy hiểm thực
sự không phải là việc trôi theo thời gian, mà là
sử dụng nó một cách tệ hại, khi chối bỏ
sự sống đời đời được Chúa Kitô
hiến ban. Ước vọng được sự
sống và hạnh phúc trường sinh phải được
tái thức tỉnh không ngừng nơi tâm can con người.
Việc cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm có một
ư nghĩa đích thực là làm tăng phát niềm ước
vọng này, giúp cho các tín hữu và con người của thời
đại chúng ta mở ḷng ḿnh ra cho một cuộc
sống vô biên”.
(Tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 17/24-12-1997)
Nếu “việc cử hành
Cuộc Mừng Kỷ Niệm có một ư nghĩa đích
thực là làm tăng phát niềm ước vọng này, giúp
cho các tín hữu và con người của thời đại
chúng ta mở ḷng ḿnh ra cho một cuộc sống vô biên”, th́
phải chăng Mùa Xuân Cứu Rỗi đến từ Thời
Điểm Hồng Ân Năm Thánh 2000 này chính là thời
kỳ xẩy ra sau Mùa Đông Lịch Sử của lạnh
giá và tối tăm: lạnh giá ở chỗ “ḷng người
ra nguội lạnh” (Mt.24:12),
và tối tăm ở chỗ “các tiên tri giả sẽ
xuất hiện vô số để lừa đảo
nhiều người” (Mt.24:11),
một Mùa Xuân Cứu Rỗi đă được Chúa Kitô
báo trước trong Phúc Âm như một “dấu chỉ
thời đại” (Mt.16:3)
tỏ tường về ngày cánh chung của thế giới:
·
“Tin
mừng về nước Thiên Chúa sẽ được
rao giảng khắp thế giới như là một chứng
từ cho mọi dân nước. Chỉ sau đó mới tới
cùng tận” (Mt.24:14).
(Bài
viết này đă được phổ biến trên các
Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu 6/1999,ø
Dân
Chúa Mỹ Châu 7/1999 và Dân Chúa Âu Châu 2/2000)