9
Ở
TRONG THẾ GIAN
“N |
ói đến Đạo thường
là nói đến Đức Tin. Bởi thế, tử v́ Đạo
mới là chết v́ Đức Tin, bỏ Đạo tức
là bỏ Đức Tin và truyền Đạo là truyền
bá Đức Tin. Như vậy, theo ư nghĩa, Đức
Tin đồng nghĩa với Đạo, là mầu
nhiệm của Đạo và là biểu hiệu cho Đạo,
và trên thực tế, Đức Tin chẳng những là
việc chấp nhận Đạo mà c̣n là việc phản
ảnh Đạo nữa.
“Nếu Đức Tin là
biểu hiệu cho Đạo th́ văn hóa là biểu
hiệu cho đời. Đức Tin phản ảnh Đạo
ra sao, th́ văn hóa cũng phản ảnh đời như
vậy. Nếu Đạo thuộc về trời thế
nào, th́ đời cũng thuộc về con người như
vậy, v́ Đạo liên quan đến mạc khải và đời
liên quan đến nhân tạo. Mà nói đến mạc
khải là nói đến những ǵ thần linh, chân
thật nhất và trọn hảo nhất. Trong khi đó,
nói đến nhân tạo là nói đến những ǵ phàm tục,
tạm bợ và tương đối. Do đó, văn hóa
của con người và làm nên con người phải được
thần linh hóa bởi mạc khải mới trọn
hảo và bền vững.
“Như thế, Đạo
hiện hữu là v́ đời và cho đời. Và đă là Đạo
th́ phải là Đạo nhập thể (incarnation) và cứu
thế (salvation). Đạo nào không có tính cách hội
nhập văn hóa (inculturation) và biến đổi văn
hóa (transculturation) th́ không thực sự là và hoàn toàn là Đạo.
“Theo
bản chất được mạc khải của ḿnh,
Kitô giáo thực sự là một Thiên Đạo. Thế nhưng,
Kitô giáo c̣n là một Đạo nhập thể nữa, qua
các công tŕnh về giáo dục và bác ái khắp thế giới,
được thực hiện bởi việc Truyền Bá
Đức Tin”.
(Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL, Gịng Sông Chảy Nước Ban Sự
Sống Đời Đời, Cao-Bùi, 1998, trang 208)
Thật vậy, nếu không
có Đức Tin th́ chỉ có văn hóa sự chết chứ
không thể nào có văn hóa sự sống, một thứ
văn hóa xứng với nhân phẩm của con người
là loài được dựng nên theo h́nh ảnh của Thiên
Chúa và tương tự như Thiên Chúa. Bởi v́, "Người
ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng c̣n bởi mọi lời
phát ra từ miệng Thiên Chúa" (Mt.4:4).
Xét về yếu tố làm nên
hữu thể, con người khác với con vật ở
tại linh hồn của ḿnh. Bởi linh hồn và nhờ
linh hồn này, con người có thể nhận biết
ḿnh và biết sống sao cho xứng hợp với thân
phận của ḿnh trong việc "làm chủ trái đất"
(Gen.1:28). Như thế, xét về yếu tố sinh
hoạt, con người tỏ ra trổi vượt hơn
con vật ở tại văn hóa của ḿnh. Văn hóa chính
là bộ mặt của con người và là chân tướng
của con người. Đến nỗi, nếu không có
văn hóa con người cũng không c̣n là con người
nữa, hay có là con người cũng không hơn ǵ một
con vật.
Vậy nói đến con người
là nói đến văn hóa. Mà văn hóa là ǵ, nếu không
phải, về phẩm chất, là tinh hoa của con người,
và về tính chất, là nhân cách của con người, hay
là chính chủ trương sống của con người, được
thể hiện qua luật pháp và tục lệ của họ,
qua tín ngưỡng và giáo dục của họ, qua văn học
và nghệ thuật của họ, qua khoa học và kỹ
thuật của họ v.v. Tuy nhiên, v́ văn hóa là
"những ǵ thế gian", những ǵ phát xuất từ
con người và thuộc về con người, mà con người
lại "nhân vô thập toàn". Do đó, thực tế
cho thấy, văn hóa hoàn toàn có tính cách tương đối,
tức có thể sai lầm và bất toàn, có thể thay đổi
và nghịch nhau.
Văn hóa của con người
không sai lầm và bất toàn là ǵ, khi mà, trong chính thời điểm
hầu như văn minh tuyệt đỉnh ngày nay, con người
lại chủ trương làm những việc phạm đến
chính nhân phẩm linh thiêng bất khả xâm phạm của
con người, như đă từng xẩy ra trong chế độ
cộng sản chuyên chế độc tài hay đang
xẩy ra nơi các ống nghiệm tạo nhân, cũng như
những việc phạm đến chính sự sống
hết sức cao qúi của con người, như luật
cho phép phá thai, hay luật cho phép giết êm dịu thành
phần yếu bệnh vô phương cứu chữa,
sống chỉ thêm gánh nặng và tốn phí cho xă hội.
Ngoài ra, văn hóa của con người
cũng không tương đối ở chỗ nó có
thể thay đổi và tỏ ra đối nghịch nhau
là ǵ, giữa văn hóa của dân tộc này với dân tộc
kia, giữa văn hóa của thời này với thời
khác. Không phải hay sao, trong khi văn hóa của dân tộc Ấn
Độ theo đạo Bà-La-Môn coi trọng con ḅ như một
vị thần linh bất khả xúc phạm và đáng tôn
kính, th́ đối với văn hóa Việt Nam con ḅ chỉ
là một con vật kéo cầy và là biểu tượng cho
ngu si đần độn: "Ngu như con ḅ!"
Cũng không phải hay sao,
văn hóa c̣n thay đổi theo thời thế, theo thị
hiếu của con người, điển h́nh nhất là
trong vấn đề thời trang, được thể
hiện qua nhiều kiểu cách ăn mặc cũng như
trang điểm đầu tóc nơi cả hai phái nam
nữ, đến nỗi có những lúc nh́n đằng sau
không c̣n phân biệt là nam hay nữ. Về phương
diện văn hóa thay đổi theo thời thế liên quan
đến phái tính này không thể không kể đến
luật pháp cho phép hôn nhân đồng tính luyến ái tại
Hoa Kỳ cũng như tại Âu Châu.
Một sự kiện
hiển nhiên hơn nữa có thể chứng minh văn hóa
của con người hoàn toàn có tính cách tương đối,
v́ nó thay đổi theo thời gian và không gian (địa phương),
đó là các thể chế chính trị. Trước cách
mạng Pháp 1789, các nước trên thế giới đều
theo chế độ quân chủ. Sau đó, chế độ
dân chủ bắt đầu h́nh thành cho tới nay. Tuy nhiên,
vẫn c̣n một số nước, chưa hoàn toàn dứt
bỏ chế độ quân chủ này, ở chỗ có
cả vua lẫn quốc hội, như Anh Quốc,
Nhật Bản, Thái Lan v.v. Thế rồi, sau cách mạng
Nga 1917, chế độ cộng sản đă ra đời
và, cho đến năm 1989 là năm cộng sản Đông
Âu sụp đổ và năm 1991 là năm Liên Bang Sô Viết
từ bỏ cả chủ nghĩa lẫn chế độ
cộng sản, chế độ này đă tràn lan đến
cả nửa phần địa dư của thế giới.
Ngoài ra, c̣n có một thể chế chính trị có tính cách
trung dung giữa cộng sản và dân chủ, đó là
chế độ xă hội vẫn được các nước
Bắc Âu theo đuổi, như Đan Mạch, Thụy Điển,
Na-Uy v.v.
Nếu văn hóa của con người
có tính cách tương đối, bất toàn, bất
nhất và đổi thay như thế, th́ cho dù về khoa
học và kỹ thuật con người có tiến hóa đến
đâu đi nữa, văn hóa cũng không thể nào làm cho
con người thăng tiến và hoàn toàn đạt đến
tầm vóc nhân bản cao qúi của ḿnh. Cũng chính v́ không có
một nền văn hóa hết sức kiện toàn mà, trong
thời điểm văn minh vật chất vượt
bậc này, văn hóa của con người đă trở
thành một thứ "văn hóa tử vong", một thứ
văn hóa tác hại đến chính nhân phẩm làm nên con người
cũng như sát hại đến cả sự sống c̣n
của con người, một thứ văn hóa làm cho con người
sống trong thù hằn ghen ghét cũng như trong lo âu sợ
hăi bị diệt vong.
Đó là lư do tại sao văn
hóa của con người cần đến Đức Tin
Kitô Giáo hơn bao giờ hết, nhất là kể từ
thập niên 1960 đến nay, một thập niên đánh
dấu một nền văn minh vật chất càng ngày càng
lên đến tuyệt đỉnh của con người,
qua việc con người bắt đầu thám hiểm không
gian, và qua những phát minh tân kỳ cả về kỹ
thuật điện tử lẫn điện toán, ngoài ra,
thập niên này cũng đánh dấu một cuộc cách
mạng nhân bản hầu như muốn lật đổ
đến tận gốc rễ tất cả những ǵ
làm nên xă hội loài người, qua việc bắt đầu
ban bố những luật pháp cho phép ly dị và phá thai.
N |
hận thấy thế giới
loài người được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên
Chúa và tương tự như Thiên Chúa bắt đầu
phiêu lưu vào một qũi đạo văn hóa chết chóc
như thế, với trách nhiệm ở trong thế gian mà
không thuộc về thế gian của ḿnh (x.Jn.17:11,13-15),
Giáo Hội Công Giáo Rôma đă triệu tập một Công Đồng
Chung tại Vatican lần thứ hai, từ ngày 11-10-1962 đến
8-12-1965, để làm sao có thể trở thành "Ánh Sáng Muôn
Dân" ("Lumen
Gentium" – tên gọi của Hiến Chế Tín Lư về
Giáo Hội, một văn kiện chính yếu nhất trong
16 văn kiện của Công Đồng này), nhờ đó Giáo Hội có
thể mang lại cho thế giới tân tiến
"Niềm Vui và Hy Vọng" ("Gaudium et Spes" – nhan đề
của Hiến Chế Mục Vụ diễn đạt
tính cách đối ngoại của Giáo Hội trong Thế
Giới Tân Tiến, phản ảnh và quảng diễn
văn kiện có tính cách đối nội trên đây).
Không riêng ǵ Công Đồng
Chung Vaticanô II này, trong suốt gịng lịch sử của
ḿnh, tùy theo thời thế và cách thế, Giáo Hội Công Giáo
Rôma, nhất là kể từ Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, với
Thông Điệp "Rerum Novarum" về điều
kiện của những giai cấp làm việc, ban hành ngày
15-5-1891, đă mở màn cho học thuyết xă hội của
Kitô Giáo vào thời điểm chủ thuyết cộng
sản sắp sửa hiện thân trở thành chế độ
cộng sản vô thần sắt máu, một học
thuyết xây dựng trên nền tảng bất biến là
mạc khải thần linh, để ít là làm như
muối ướp (x.Mt.5:13) giữ cho văn hóa thế gian
khỏi bị thối rữa và băng hoại. Học
thuyết xă hội của Kitô Giáo này đă được
các vị giáo hoàng kế tiếp khai triển và áp dụng
vào thời điểm của ḿnh, theo thứ tự thời
gian, có thể kể đến như sau:
Thông Điệp "E
Supremi" của Đức Piô X ban hành ngày 4-10-1903,
về việc phục hồi mọi sự trong Chúa Kitô
Thông Điệp "Ad
Beatissimi Apostolorum" của Đức Bênêđictô XV ban
hành ngày 1-1-1914, về việc kêu gọi ḥa b́nh.
Các Thông Điệp của Đức
Piô XI, như "Divini Redemptoris" về cộng
sản, ban hành ngày 19-3-1937, và Thông Điệp "Nova
Impendet" về việc khủng hoảng kinh tế, ban
hành ngày 2-10-1931.
Thông Điệp "Summi
Pontificatus" của Đức Piô XII ban hành ngày
20-10-1939, về việc hiệp nhất của xă hội loài
người.
Các Thông Điệp của Đức
Gioan XXIII, như "Mater et Magistra" về Kitô Giáo
và việc phát triển xă hội, ban hành ngày 15-5-1961, và Thông Điệp
"Pacem in Terris" về t́nh trạng b́nh an hoàn vũ
trong chân lư, chính trực, bác ái và tự do, ban hành ngày
11-4-1963.
Các Thông Điệp của Đức
Phaolô VI, như “Humane Vitae" về sự sống con
người liên quan đến việc ngừa thai, ban hành
ngày 25-7-1968, và Thông Điệp "Populorum Progressio"
về việc phát triển của các dân tộc, ban hành ngày
26-3-1967.
Các Thông Điệp của Đức
Gioan-Phaolô II, như "Laborem Exercens" về công
việc làm của con người, ban hành ngày 14-9-1981; Thông Điệp
"Sollicitudo Rei Socialis" về việc quan tâm đến
xă hội, ban hành ngày 30-12-1987; Thông Điệp "Mulieris
Dignitatem" về phẩm vị và ơn gọi của
phụ nữ, ban hành ngày 15-8-1988; Thông Điệp "Centesimus
Annus" về những vấn đề xă hội và
kinh tế, ban hành để kỷ niệm 100 năm Thông Điệp
"Rerum Novarum" (1891-1991); và Thông Điệp "Evangelium
Vitae" về gía trị và tính cách bất khả xâm
phạm của sự sống con người, ban hành ngày
25-3-1995.
Văn Hóa của con người,
thành phần được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên
Chúa và tương tự như Thiên Chúa, chỉ đạt đến
tầm vóc toàn hảo của ḿnh khi nó hoàn toàn được
Đức Tin soi dẫn để có thể trung thực
phản ảnh Lời Chúa là thần linh và là sự
sống: "Triều đại của Thiên Chúa giống
như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào
ba đấu bột. Dần dần cả khối bột
trộn men bắt đầu phồng lên" (Mt.13:33).
Đất không thể tự
ḿnh xanh tươi nếu các hạt giống nơi nó không
mọc lên thế nào th́ thế gian cũng không thể nào có
một bộ mặt nhân bản nếu không có văn hóa của
con người như vậy. Tuy nhiên, cho dù có xanh tươi
nhờ các hạt giống nơi nó mọc lên đi
nữa, đất cũng chỉ là những cánh đồng
hoang hay những khu rừng rậm, nơi ẩn nấp của
loài dă thú. Cũng thế, qua gịng thời gian của
lịch sử thế giới, nhất là giai đoạn BC
(trước Chúa Kitô giáng sinh), văn hóa của con người
vẫn c̣n là nơi chất chứa những con dă thú của
sức mạnh, của rừng rú, của chộp bắt
nhau, ăn thịt nhau.
Thật vậy, về
thể lư, văn hóa của con người trong giai đoạn
BC không là nơi ẩn nấp của loài dă thú, sặc mùi
máu tanh và tử khí bốc lên từ sức mạnh của
các đế quốc là ǵ? Như đế quốc Akkadian
từ 2360 BC ở vùng Mesopotamia và Ba Tư, đế
quốc Cựu Babylon cũng ở vùng này từ 1728 BC, đế
quốc Hittite từ 1296 BC ở vùng Anatonia và Syria, đế
quốc Assyria từ 883 BC ở vùng Mesopotamia và Persia, đế
quốc Tân Babylon từ 605 BC rồi đến đế
quốc Ba Tư từ 550 BC cũng ở vùng này, đế
quốc Alexander từ 323 BC ở vùng Hy Lạp và Rôma, đế
quốc Seleucid từ 280 BC ở vùng Anatolia và Syria, đế
quốc Parthian ở vùng Mesopotamia và Ba Tư và đế
quốc Rôma ở vùng Hy Lạp và Rôma cùng một thời sau
200 BC, đế quốc Rôma ở Palestine từ 50 BC v.v.,
Chưa hết, về luân lư,
văn hóa của loài người trong giai đoạn BC cũng
c̣n là nơi ẩn nấp cho loài dă thú, loài sống theo
luật rừng mạnh được yếu thua, được
tỏ hiện qua những khuynh hướng triết lư hay đạo
lư khinh thường vật chất, hạ giá xác thịt,
và coi thường phụ nữ nơi các tục đa thê
v.v.
Thế nhưng, kể từ
khi "có người kia đi gieo giống tốt trong
thửa ruộng của ḿnh" (Mt.13:24), đó là Lời
nhập thể đi rao giảng Tin Mừng, đi
truyền bá Phúc Âm trên thế gian và cho con người,
bắt đầu từ vùng đất Do Thái, th́ đất
đă bắt đầu "trổ sinh muôn vàn hoa trái"
(Jn.12:24,15:5).
Đ |
úng vậy, kể từ khi
"hạt giống tốt" là mạc khải thần
linh, là tinh thần đức ái trọn hảo, được
trời cao gieo xuống thửa ruộng thế gian, th́
văn hóa nhân bản bắt đầu lên men thần linh.
Không phải hay sao, kể từ giai đoạn AD là
"năm của Chúa", tức kể từ thời điểm
Chúa Kitô giáng sinh, thời điểm "sự sống đă
tỏ hiện cho chúng ta" (1Jn.1:2), thời điểm
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đă ban Con Một
ḿnh để ai tin Con sẽ không phải chết nhưng được
sự sống đời đời" (Jn.3:16), văn hóa
nhân bản, như một mầm thai tới thời
khắc được hồn thiêng hóa để bắt đầu
sống động như một con người thế
nào, thực sự cũng đă được Phúc Âm hóa để
trổ sinh "sự sống viên măn hơn" (Jn.10:10) cho
loài người như thế?
Nh́n vào thế giới
hiện nay, sau gần 2000 AD, tức sau gần 2000 năm Chúa
Kitô giáng sinh, chúng ta nhận thấy ǵ đặc biệt,
nếu không phải là tinh thần yêu thương phục vụ
do Kitô giáo khởi xướng, bắt đầu từ Âu
Châu, một đại lục có thể nói là đại lục
Kitô giáo, đă được nẩy nở khắp nơi
trên thế giới, về cả lănh vực văn học
cũng như xă hội.
Về lănh vực văn học
là lănh vực đầu năo chi phối các lănh vực khác,
phải kể đến các đại học là môi trường
giáo dục cao cấp do Kitô giáo khởi xướng từ
thời trung cổ. Như Đại Học Bologna ở Ư
có từ năm 1100, Đại Học Oxford ở Anh
Quốc cũng bắt đầu h́nh thành từ năm
1100, Đại Học Ba Lê năm 1200, Đại Học
Toulouse do Đức Thánh Cha Gregoriô X thiết lập năm
1229, Đại Học Napoli do hoàng đế Frederic
thiết lập năm 1224, Đại Học Salamanca do vua
Ferđinand xứ Castilla sáng lập năm 1243, các đại
học ở Đức và Bắc Âu măi tới thế
kỷ 14 mới có, như Đại Học Praga năm
1348, Đại Học Vienna năm 1365, Đại Học
Heidelberg năm 1386, Đại Học Cologne năm 1388 v.v.
Tại Hoa Kỳ, đại học đầu tiên là Đại
Học Harvard ở Cambridge tiểu bang Massachusetts được
thành lập từ năm 1636, trước hết, là để
dạy chủng sinh theo học thần học, sau đó mới
trở thành một đại học đời như bây
giờ. Đối với việc giáo dục học đường,
cách riêng ở Việt Nam, nổi tiếng nhất phải
kể đến trường của các Sư Huynh Lasan, như
trường trung học Tabert Sài G̣n, một học đường
thu hút được không biết bao nhiêu là con cái của
những nhà có tai mắt ngoại giáo. Ngày nay, chính các cán bộ
cộng sản theo chủ thuyết chống Công Giáo
lại chỉ yên tâm khi mang con cái của ḿnh đến học
ở các trường có các bà sơ dạy mà thôi.
Về lănh vực xă hội, một
lănh vực tim gan, (so với lănh vực văn học là lănh
vực đầu năo), Kitô giáo cũng đă là khai sáng viên
trong các việc phục vụ con người về mọi
phương diện, như việc mở các nhà thương
để chữa trị thương đau nơi xác thân
con người, lập các viện mồ côi để
chăm nuôi dưỡng dục trẻ em không nhà, mở các
trại cùi để săn sóc thành phần bị người
đời ghê sợ xa tránh v.v
Theo lịch sử Giáo Hội,
việc bác ái xă hội bắt đầu triển nở từ
cuối thể kỷ 16 sang đầu thế kỷ 17. Khởi
sự với việc Ḍng Thánh Gioan Thiên Chúa ở Bồ Đào
Nha mở các bệnh viện, nên ḍng này c̣n được gọi
là Ḍng Bệnh Viện. Tiếp đến là Văn Pḥng Bác Ái
Công Giáo do vua Henri IV lập năm 1606 để kiểm soát
các tổ chức bác ái xă hội và xây cất nhiều
bệnh viện mới. Nổi tiếng nhất là Ḍng
Nữ Tử Bác Ái Thánh Phaolô lập năm 1633 để
chuyên chăm sóc người bệnh hoạn, tật
nguyền, già nua cũng như các trẻ em mồ côi.
Thế nhưng, công cuộc bác ái xă hội phát triển nhanh
nhất (từ năm 1950) và rộng nhất (tới 126
quốc gia, kể cả các nước cộng sản)
phải kể đến việc phục vụ "người
nghèo nhất trong các người nghèo" của Ḍng Thừa
Sai Bác Ái do Mẹ Têrêsa Calcutta lập, một hiện thân đức
ái Kitô giáo thời đại đă được cả
thế giới tiếc thương khi mẹ qua đi ngày
5-9-1997. Ngoài ra, việc bác ái xă hội Công Giáo c̣n ôm ấp
chính thành phần người cùi nữa, mà hai vị tông đồ
người cùi lưu danh là cha Đa-miêng ở Môlôcai bên
Hạ-Uy-Di, và đức cha Cát-Sanh ở Di Linh Việt Nam.
Phải, nhờ tinh thần
hy sinh phục vụ của con cái Giáo Hội, thành phần
truyền giáo nơi các xứ dân ngoại, cũng như
thành phần làm việc tông đồ ngay trong ḷng xă hội,
được thực hiện bởi thành phần giáo
sĩ và tu sĩ sống đời tận hiến, theo
lệnh truyền của Chúa Kitô phục sinh: "Các con hăy đi
khắp thế gian loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi
tạo vật" (Mk.16:15), mà đức tin nhỏ như
hạt cải, nhỏ đến nỗi không thể nh́n
thấy bằng con mắt tự nhiên, đă mọc lên xum
xuê thành một Giáo Hội hoàn vũ vĩ đại, đến
nỗi, các linh hồn như chim trời đến làm tổ
nương thân nơi càc cành của nó (x.Mt.13:31-32) là các chi
thể thuộc Nhiệm Thể của Chúa Kitô, được
hiện thân qua các Giáo Hội chuyên biệt địa phương,
các ḍng tu, các vị đại thánh thời đại v.v.