3.- MÙA XUÂN MARIA
M |
aria": "Người
nữ" mà Thiên Chúa đề cập đến trong Lời
Hứa với con người ngay trong Bản Án Nguyên Tội
chính là mầm hy vọng vươn lên ngay "từ ban đầu"
và "bắt đầu" lịch sử của con người
sa đoạ. Chính mầm hy vọng làm cho con người
sống "vui vẻ" trong lầm than này đă biến
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" trở thành Mùa Hy Vọng cho
con người và của con người. "Người
nữ" của "Lời Hứa" trở thành
niềm hy vọng cho con người và của con người
này, theo Phụng Vụ Giáo Hội Công Giáo, chính là: "Trinh
Nữ Maria, Đấng đă mang đến cho thế gian
b́nh minh của niềm hy vọng và của ơn cứu rỗi"
(Lễ Sinh Nhật Mẹ Maria: Lời Nguyện Sau Hiệp
Lễ).
"Maria": "Người
nữ" của "Lời Hứa" vươn lên
ngay "từ ban đầu" trong lịch sử của
con người sa đoạ như một mầm hy
vọng ấy chẳng những hội đủ ngay
nơi ḿnh ba yếu tố chính làm nên Mùa Xuân đích
thực, Mùa Xuân Nguyên Thủy, "Mùa Xuân Trước Nguyên
Tội", mà c̣n chính là Mùa Xuân Viên Măn, Mùa Xuân Muôn Thuở,
cho chung mọi tạo vật, cũng như cho riêng thế
giới ngày nay đang ở vào mùa đông của lịch
sử nhân gian.
"Mùa Xuân Maria":
"Mới Mẻ". "Mới mẻ" là
bản chất nội tại làm nên Mùa Xuân. "Mới
mẻ" của Mùa Xuân nói lên thời gian khởi đầu
trong thiên nhiên. "Ban đầu Thiên Chúa đă dựng nên
trời đất" (STK 1:1) mang tính chất "mới
mẻ" của thời gian khi trời đất c̣n tinh
nguyên. Do đó, lúc ngay "ban đầu" của đất
trời, của mọi tạo vật đây chính là Mùa Xuân
Nguyên Thủy.
Tiếc thay, Mùa Xuân Nguyên Thủy
này đă bị "tên sát nhân từ ban đầu"
(Gioan 8:44), cùng với sự cộng tác của hai nguyên tổ
"muốn nên bằng Thiên Chúa" (STK3:5), làm cho tàn úa
thảm thương. Thế nhưng, theo "dự án mà
(Thiên Chúa) có ư ấn định trong Đức Kitô, được
thực hiện khi thời gian nên trọn, đó là, đem
mọi sự trên trời dưới đất đặt
dưới quyền lănh đạo của Đức
Kitô" (Eph 1:9-10), lịch sử nhân loại đă trở
thành Lịch Sử Cứu Độ ngay "từ ban đầu".
Tuy nhiên, trong Lịch Sử Cứu
Độ này, theo thời gian, cả trước khi và ngay
khi "thời gian nên trọn", Mẹ Maria cũng là
nhân vật có trước nhất. Trước khi "thời
gian nên trọn", qua h́nh ảnh "người
nữ", Mẹ được Thiên Chúa nhắc đến
"trước nhất", trước cả Chúa Giêsu
là "gịng dơi người nữ". Ngay khi "thời
gian nên trọn", Mẹ cũng là nhân vật mà Tân Ước
chân nhận: "Khi thời gian ấn định đến,
Thiên Chúa sai Con ḿnh sinh bởi người nữ" (Gal
4:4), trở thành "gịng dơi người nữ", Đấng
"tỏ ḿnh ra là để phá hủy công việc của
ma qủi" (1Gioan 3:8).
Giáo Hội mừng lễ Mẹ
Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngay ngày 1-1, ngày đầu năm dương
lịch hằng năm, từ năm 1969, cũng không ngoài ư
nghĩa này. ĐTC Phaolô VI như đă xác nhận như
thế trong tông huấn "Marialis Cultus": "Việc
cử hành này, được đặt vào ngày 1-1 hợp với
sự ấn định cũ của phụng vụ Thành
Rôma, là để tưởng nhớ đến vai tṛ
Mẹ Maria đă thực hiện trong mầu nhiệm cứu
chuộc này" (đoạn số 5).
"Mùa Xuân Maria":
"Tươi Trẻ". "Tươi
trẻ" là h́nh thức, là bóng dáng, là hiện thân của
Mùa Xuân, làm cho Mùa Xuân sống động trong thiên nhiên.
Thế gian bị "tội lỗi cùng với chết
chóc đột nhập" (Rm 5:12), càng ngày càng trở nên
tàn tạ xấu xa, cả về tinh thần "tội lỗi"
lẫn thể chất "chết chóc". Đến nỗi,
Thiên Chúa hối tiếc v́ đă dựng nên con người
trên mặt đất" (STK 6:6) và đă "thanh trừng
khỏi mặt đất" (STK 6:7) hầu hết
cả con người lẫn con vật bằng trận Đại
Hồng Thủy.
Trong khi ấy, nơi Mẹ
Maria lại "đầy ơn phúc" (Lc 1:28), cả
trong tâm hồn cũng như ngoài thân xác của Mẹ. Tâm hồn
Mẹ Maria tuyệt đối "tươi trẻ",
ở chỗ, "Vô Nhiễm Nguyên Tội", như chính
Mẹ đă tỏ ḿnh ra tại Lộ Đức ngày
25-3-1858, tức "khỏi mọi t́ vết của nguyên tội",
như Đức Thánh Cha Piô IX định tín trong trọng
sắc Ineffabilis Deus.
Thân xác Mẹ Maria hoàn toàn
"tươi trẻ", ở chỗ, trọn đời
đồng trinh, "không hề biết đến nam
nhân" (Lc 1:34). Nhan sắc tự nhiên của Mẹ Maria
tuyệt vời "tươi trẻ", ở chỗ,
không già, tầm vóc và h́nh dung luôn ở mức độ hoàn
hảo nhất, như Mẹ đă tỏ cho nữ Đáng
Kính Maria D'Agreda vào thế kỷ 17: "Điều kiện
và vóc dáng tự nhiên nơi thân xác đồng trinh thánh
hảo của Mẹ vẫn như hồi Mẹ 33 tuổi"
(Thiên Đô
cuốn 4, số 736),
cho dù Mẹ sống trên thế gian thiếu 26 ngày là đủ
70 tuổi (cùng
sách, số 742).
Hữu thể của Mẹ đời
đời "tươi trẻ", ở chỗ,
cả "linh hồn vô nhiễm và thân xác trinh trong của
Mẹ" (Tông
Huấn Marialis Cultus số 6),
như tông hiến Munificentissimus Deus của Đức Thánh
Cha Piô XII định tín, được Thiên Chúa đem
về trời vinh hiển.
"Mùa Xuân Maria":
"Vui Vẻ". "Vui vẻ" là tác dụng của
Mùa Xuân trên mọi sinh vật nói chung và nhân gian nói riêng, làm
nên ư nghĩa của Mùa Xuân. Thế mà, "Sau Nguyên Tội",
"tất cả mọi tạo vật quằn quại và
rên xiết" (Rm 8:22), trừ duy nhất tạo vật
"đầy ơn phúc" (Lc 1:28) là Trinh Nữ Maria.
Nơi "Maria đầu
thai Vô Nhiễm Nguyên Tội", như hàng chữ trong
thị kiến của chị thánh Catarina Labuarê ngày
27-11-1830, niềm "vui vẻ" là "được
tự do" (STK 2:16) như hai nguyên tổ trong Vườn
Địa Đường "trước Nguyên Tội"
vẫn c̣n đó. Niềm "vui vẻ" này của
Mẹ đạt đến mức độ tuyệt đỉnh
khi "Ngôi Lời đă hóa thành nhục thể" (Gioan
1:14) ngay trong cung ḷng trinh nguyên của Mẹ. Đến nỗi,
niềm "vui vẻ" này đă tuôn tràn ra ngoài, qua ca
vịnh "Ngợi Khen" (Magnificat), "bài ca của thời
cứu tinh, ḥa trộn niềm vui vẻ của cả
cựu lẫn tân Yến-Duyên" (Marialis Cultus số 18):
"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hân hoan
(mừng rỡ, hoan lạc, 'vui vẻ') trong Thiên Chúa, Đấng
Cứu Chuộc tôi" (Lc 1:46-47).
Niềm "vui vẻ" của
Mẹ Maria được thể hiện, trước
hết, qua tác động nhận biết của Mẹ:
"Ngài đă đoái trông đến phận thấp hèn tôi
tớ của Ngài (và) đă làm cho tôi những sự
trọng đại, danh Ngài là thánh" (Lc 1:48-49). Niềm
"vui vẻ" của Mẹ, đồng thời, cũng
được bộc lộ qua tác động chúc tụng
của Mẹ: "Ḷng thương xót Ngài trải qua đời
nọ đến đời kia, hằng bao bọc
những người kính sợ Ngài... như Ngài đă phán hứa...
đến muôn đời" (Lc 1:49-50,55).
4.- MÙA XUÂN VIÊN MĂN
M |
ùa Xuân Nguyên Thủy, "Mùa
Xuân Trước Nguyên Tội", cho dù có hội đủ
3 yếu tố chính là "mới mẻ" của thời
gian, "tươi trẻ" nơi không gian và "vui
vẻ" cho nhân gian, để làm nên Mùa Xuân Đích
Thực, vẫn không phải là Mùa Xuân Muôn Thuở. Bởi
v́, Mùa Xuân Nguyên Thủy đă không c̣n nữa, đúng hơn,
đă biến thái (deformed) thành "Mùa Xuân Sau Nguyên Tội",
một trong "4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời
tiết như hiện nay".
Trái lại, nơi "Mùa
Xuân Maria", 3 yếu tố chính làm nên Mùa Xuân Đích
Thực, chẳng những không mất, mà c̣n trở
thành "viên măn", trở thành bất diệt, để
"Mùa Xuân Maria" không c̣n là ǵ khác hơn là chính "Mùa
Xuân Muôn Thuở". "Mùa Xuân Maria" là "Mùa Xuân Muôn
Thuở" v́ bản chất "viên măn" của ḿnh như
thế, trước hết là do bởi "Con Đấng
Tối Cao" (Lc 1:32), Chúa của "Mùa Xuân Viên Măn", và
sau nữa, là nhờ ở chính Maria, "người đă
tin" (Lc 1:45), Hồn của "Mùa Xuân Muôn Thuở"
này.
"Mùa Xuân Viên Măn" là do Chúa
Xuân. Trước
khi con người có, đă có Mùa Xuân Nguyên Thủy, Mùa Thái
Ḥa Trời Đất. Được dựng nên theo h́nh
ảnh Thiên Chúa, với quyền "làm chủ trái đất",
ngay "từ ban đầu", con người có thể
được coi là chủ của mùa xuân, chủ của Mùa
Xuân Nguyên Thủy này. Nói cách khác, Mùa Xuân Nguyên Thủy có là để
cho con người, và nếu không có con người, Mùa Xuân
Nguyên Thủy sẽ không cần có hay có cũng chẳng c̣n
ư nghĩa ǵ nữa.
Cũng thế, trước
khi "Ngôi Lời hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), đă
có "Mùa Xuân Maria". "Là trưởng tử mọi
tạo vật" (Col 1:15), và "trong Người mà
mọi sự trên trời dưới đất được
tạo thành... tất cả được tạo thành nhờ
Người và cho Người" (Col 1:16), Người cũng
chính là Chúa Xuân, Chúa của "Mùa Xuân Maria". "Mùa Xuân
Maria" sẽ không bao giờ có, nếu không có và không cho
vị Chúa Xuân là Con Đấng Tối Cao.
Thế nhưng, Mùa Xuân Nguyên
Thủy, tức "Mùa Xuân Trước Nguyên Tội" đă
bị bàn tay lông lá của tà thần cũng như của
con người là chủ nó làm tàn úa. Trái lại, "Mùa Xuân
Maria" lại được chính tổng thần Gabriel
cung kính chúc tụng: "Kính mừng đầy ơn phúc"
(Lc 1:28), được bao phủ bởi "quyền phép Đấng
Tối Cao" (Lc 1:35), và được "thụ
thai...Con Đấng Tối Cao" (Lc 1:31-32). Vị Chúa Xuân
là "Quả phúc của ḷng Mẹ" (Lc 1:42) này, khi được
đầu thai, cưu mang và sinh hạ bởi Mẹ,
chẳng những không tác hại "Mùa Xuân Maria" đồng
trinh vô nhiễm, mà c̣n làm viên măn "Mùa Xuân Maria" của
ḿnh nữa.
Là "Ngôi Lời đă hóa
thành nhục thể...đầy ân sủng và chân lư"
(Gioan 1:14,16), "đến cho chiên được sống
và được sống viên măn hơn" (Gioan 10:10),
"sự viên măn của Người là Đấng làm
trọn vẹn tất cả mọi phần của hoàn vũ"
(Eph 1:23), vị Chúa Xuân này chắc chắn đă làm "Mùa
Xuân Maria" của ḿnh "viên măn" trước hết
và trên hết. Mức độ "viên măn" của
"Mùa Xuân Maria" do Chúa Xuân Giêsu tạo nên đă làm cho
thai nhi tiền hô Gioan "nhảy mừng" (Lc 1:41), cho
thai mẫu của Gioan được "đầy Thánh
Linh và kêu lên lớn tiếng" (Lc 1:42), cho cả người
phụ nữ không hề biết Mẹ cũng "kêu lên:
'Phúc cho ḷng đă cưu mang Ngài và vú đă cho Ngài bú'" (Lc
11:27), và c̣n cho "mọi đời về sau sẽ chúc
khen (Mẹ) diễm phúc" (Lc 1:48).
Như thế, "Mùa Xuân
Maria" chẳng những là của Chúa Xuân Giêsu Kitô mà c̣n
cho chung tất cả mọi người và mọi thời,
cho riêng Giáo Hội là nhiệm thể của Chúa Kitô
nữa, và qua việc rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội,
"cho tất cả mọi tạo vật" (Mc 16:15)
"đă phải chịu lụy thuộc trong cảnh hư
hoại ngoài ư muốn của ḿnh... đang ngong ngóng...chia
sẻ tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa" (Rm
8:20,19,21).
"Mùa Xuân Viên Măn" là nhờ
Hồn Xuân.
"Mùa Xuân Maria" chẳng những "viên măn" do Chúa
Xuân là Chúa Giêsu, mà c̣n nhờ Hồn Xuân là chính Đức Tin
của Trinh Nữ "đầy ơn phúc".
Không phải v́ được
đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, nhờ đó, không có đam
mê t́nh dục, không có khuynh hướng phạm tội, mà
Mẹ Maria không có thử thách (cám đỗ) và không thể
phạm tội. Nếu thế th́ đă không có Nguyên Tội
khi hai nguyên tổ c̣n ở trong Sự Công Chính Nguyên Thủy,
trong t́nh trạng vô tội và không biết đến tội
lỗi là ǵ. Đặt trường hợp Trinh Nữ
"đầy ơn phúc", v́ bất cứ lư do ǵ, một
khi đă biết rơ ư định của Thiên Chúa về ḿnh
và cho ḿnh như sứ thần tŕnh bày, không chịu thưa
"xin vâng" (Lc 1:38), th́ Người có c̣n đáng
nhận lời chúc tụng của mẹ thai nhi tiền hô
Gioan hay không: "Phúc cho Người là vị đă tin
rằng lời Chúa phán cùng Người sẽ được
thực hiện" (Lc 1:45).
Phải, chính nhờ Đức
Tin là "Hồn Xuân" này mà "Mùa Xuân Maria" chẳng
những không tự tàn héo, mà càng trở thành "Mùa Xuân Viên
Măn", đúng như ngụ ư của câu Chúa Giêsu trả lời
người phụ nữ lạ khen tụng Mẹ Người:
"Phúc hơn cho người nghe lời Thiên Chúa mà giữ
lấy" (Lc 11:28). Đôi tân hôn cùng với khách dự
tiệc cưới ở Cana là những người đă
không ngờ được thưởng thức một thứ
rượu ngon hơn thứ rượu đă hết của
họ. "Thứ rượu ngon hơn" này chắc
chắn sẽ làm cho họ "vui vẻ" trọn
vẹn hơn và hoàn toàn hơn, không phải là nhờ có
Mẹ Maria hay sao!?! Đâu có Mẹ ở đấy có hy
vọng, có niềm vui, có sự sống. Là Mẹ Chúa Giêsu,
Mẹ chính là "Mẹ Sự Sống" (x.STK 3:20, Gioan
14:6, 1Gioan 1:2).
"Mùa Đông Lịch
Sử": Sự Chết. Thế giới hiện đại,
thế giới ngay trước ngưỡng cửa của
đệ tam thiên niên (mà năm 2001 là năm đầu tiên
mở màn) theo Tây Lịch này cũng có thể t́m thấy
Sự Sống nơi "Mùa Xuân Viên Măn" Maria. Nhân
loại về cuối đệ nhị thiên niên và từ
giữa thập niên cuối cùng của kỷ nguyên thứ
hai đang ở vào giai đoạn "lịch sử mùa đông".
Thật vậy, nhờ khoa
học siêu đẳng và kỹ thuật tối tân, con người
ngày nay xa dần thiên nhiên, không c̣n phải lao động
"đổ mồ hôi" nhiều nữa, như lúc con
người đang ở trong giai đoạn "lịch
sử mùa hè" là giai đoạn tiền sử và bán khai,
giai đoạn lịch sử mà lúc gay gắt nhất là lúc
Con Thiên Chúa "đổ mồ hôi máu nhỏ xuống đất"
(Mt 22:44) và lúc chính ngọ là lúc ánh sáng phục sinh của
Mặt Trời Công Chính chiếu giăi. Thế nhưng,
thực tế cho thấy, càng xa thiên nhiên, càng gần nhân
tạo, càng tự động (autonomy), càng tự do (right of
freedom), càng tự nhiên (naturalism), con người h́nh như
càng xa Đấng Hóa Công, càng bại hoại về luân lư,
như xă hội loài người đă từng trải qua
giai đoạn "lịch sử mùa thu" từ đầu
thế kỷ 19, giai đoạn kỹ nghệ mở màn.
Những hiện tượng
đang xẩy ra cho thấy từ hậu bán thế kỷ
20, khởi sự từ thập niên 1960, con người
bắt đầu đi vào giai đoạn "lịch
sử mùa đông". Mùa đông là mùa lạnh lẽo và
tối tăm, những biểu tượng của sự
chết. Hơn bao giờ hết, ngày nay người ta
trực tiếp ra tay giết nhau: các cường quốc
giết nhau qua hai trận Thế Chiến I và II, các chủng
tộc giết nhau như đang diễn ra ở Âu Châu cũng
như Phi Châu, thậm chí, các thầy thuốc vốn làm
nghề cứu nhân độ thế cũng biến thành thợ
giết bệnh nhân "v́ nhân đạo", giết thai
nhi v́ tôn trọng quyền tự do (pro-choice) của người
mẹ v.v. Người ta giết nhau như thế là do t́nh
trạng "lạnh", lạnh kiểu "thương
hàn", lạnh từ trong ra, lạnh t́nh, lạnh cảm.
Họ không c̣n biết yêu, đúng hơn, không có t́nh yêu:
"Ai không yêu thương th́ ở trong sự chết. Ai
ghét anh em ḿnh là kẻ sát nhân" (1Gioan 3:14-15).
"Mùa Xuân Viên Măn":
Sự Sống. Thế nhưng, theo chu kỳ của
thời gian, sau giai đoạn "lịch sử mùa đông",
biểu hiệu cho sự chết, sẽ là và phải đến
giai đoạn "lịch sử mùa xuân", biểu
hiệu cho sự sống cũng là dấu hiệu của
sự sống: "Sự chết giống như một
giấc ngủ triền miên của vũ trụ khi mùa đông
tới chờ sang xuân mới thức dậy. Đối với
thiên nhiên cũng như đối với các linh hồn, đó
là b́nh minh của phục sinh". Chúa Giêsu đă nói với
người nữ sứ giả giáo dân Magarita của Người
trong Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu ngày 18-11-1966 như
thế.
Chúa Cứu Thế đă không
giáng sinh vào mùa đông cách đây 2000 năm hay sao? Giữa mùa
đông giá buốt, tối tăm, mù mịt đêm hôm
ấy, đă không hiện lên những dấu chỉ của
một mùa xuân hay sao: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời và b́nh
an dưới thế cho người thiện tâm" (Lc
2:14). Phải chăng giai đoạn "lịch sử mùa
đông" càng ngày càng rùng rợn và kinh hoàng trên thế giới
hiện nay chính là "những điềm thời đại"
(Mt 16:3) báo hiệu Chúa Kitô sắp tái giáng?
Không ai dám quả quyết và
biết chắc được lúc nào tận thế. Tuy
nhiên, những biến cố liên quan đến lịch
sử thế giới nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng
trong thế kỷ 20 này, không phải hay sao, là "những
điềm trời" (Mt 16:1) đă hiện lên báo động.
Bức tường Bá-Linh sụp đổ ngày 9-11-1989
ngay sau biến cố Đông Âu 1989 không phải là "điềm
trời" báo hiệu giai đoạn "lịch sử
mùa đông" đang tan dần như một tảng
băng tuyết trên miền bắc cực của trời đất
(cũng là địa thế của Liên Bang Sô Viết trên
bản đồ thế giới) hay sao? Thế nhưng,
theo thú nhận của chính nhà lănh đạo vô thần
cuối cùng của chế độ Cộng Sản Sô
Viết, cũng là nhân vật chủ chốt gây nên cuộc
sụp đổ ở Đông Âu, th́ hiện tượng cộng
sản tự giải thể, như tảng băng
tuyết tan dần này là do vai tṛ chủ chốt của Đức
Thánh Cha Gioan-Phaolô II, và Đức Thánh Cha lại qui về
Biến Cố Fatima, như ngài minh định trong cuốn
Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của ngài.
Phải, nhờ ảnh hưởng
25 năm Biến Cố Fatima mới có cuộc hiến dâng
thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ
Maria ngày 31-10-1942 do Đức Thánh Cha Piô XII thực hiện
lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội. Cuộc
hiến dâng quyết liệt liên quan đến vận
mệnh của thế giới này được trọn
vẹn kết thúc vào ngày 25-3-1984 do Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II cùng với hàng giáo phẩm thế giới
thực hiện. Song song với việc làm chủ yếu
trên đây của thẩm quyền Giáo Hội, c̣n có phong
trào Mẹ Thánh Du Quốc Tế từ ngày 13-5-1947, đến
nay vẫn liên tục tiếp diễn khắp nơi trên
thế giới. Tất cả những diễn tiến đó,
không phải hay sao, đều là "những điềm
trời" báo hiệu "Mùa Xuân Maria", "Mùa Xuân Muôn
Thuở", Mùa Xuân Viên Măn Chúa Kitô, "Đấng một
lần đă chết nhưng hiện vẫn sống muôn đời"
(KH 1:18). "Mùa Xuân Maria" ấy đang tưng bừng mở
hội cho một Mùa "Trời Mới Đất Mới"
(KH 21:1) là Thời "Canh Tân Mọi Sự" (KH 21:5).
(bài này đă
được phổ biến trên các Nguyệt San Trái Tim Đức
Mẹ 1/1995, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp 2/2000,
Hiệp Nhất 2/2000, và Tam Cá Nguyệt San Vào Đời
2/2000)
Cùng Mẹ Ngợi Khen Chúa
TGP/LA Lễ Các Thánh 1/11 Năm Thánh 2000
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL