THIÊN CHÚA LÀ CHA TRÊN TRỜI
“Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn.4:24), qua lịch sử của dân Do Thái, đã tỏ mình ra là Chúa Duy Nhất là như thế. Tuy nhiên, trong nội dung của mạc khải Thiên Chúa là Chúa Duy Nhất này, Thiên Chúa chẳng những đã làm cho chính dân Do Thái cảm được quyền toàn năng của Ngài, mà còn, theo nhiệm ý của Ngài, làm cho họ cảm nhận được tình của Ngài đối với họ. Ở chỗ, cho dù họ có phản bội giao ước nhưng không của Ngài, Ngài vẫn thông cảm với họ, thứ tha cho họ, ra tay cứu họ, và nhất là còn dùng chính những lỗi lầm của họ, những lỗi lầm làm cho họ ra nhơ nhuốc bởi họ bỏ Ngài là Chúa Duy Nhất của họ mà đi ngoại tình với các thần ngoại lai do loài người tạo nên, để làm cho họ nhận biết Ngài mỗi ngày một hơn, đúng như lời Ngài tuyên phán trong sách Tiên Tri Eâzêkiên:
Þ “Ta sẽ mang Yến Duyên (Israel) nơi các nước mà họ đã đến mà tụ họp họ từ mọi ngã để mang họ về lại mảnh đất của họ... Họ sẽ không còn làm mình ra nhơ nhuốc nữa, bởi những ngẫu tượng của họ, bởi những ghê tởm của họ, và bởi tất cả những vấp phạm của họ. Ta sẽ giải thoát họ tất cả mọi tội lỗi bội giáo, và thanh tẩy họ để họ được là dân của Ta và Ta là Thiên Chúa của họ... Ta sẽ thiết lập giao ước bình an với họ; giao ước này sẽ là một giao ước vĩnh viễn đối với họ, rồi Ta sẽ làm họ sinh sôi nẩy nở và muôn đời sẽ đặt cung thánh của Ta ở giữa họ. Nơi Ta ngự sẽ ở với họ: Ta sẽ là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân của Ta. Các dân nước sẽ nhận ra rằng chính Ta là Chúa, Đấng đã làm cho Yến Duyên nên thánh hảo, khi cung thánh của Ta sẽ được dựng nên giữa họ” (Ez 37:2123,26-28)
Đúng thế, theo ý định vô cùng sâu nhiệm của mình, Thiên Chúa là Chúa Duy Nhất tỏ mình ra là để thánh hóa dân Do Thái, nhờ đó, dân Do Thái xứng đáng là nơi Ngài ngự. Và Thiên Chúa là Chúa Duy Nhất thực sự ngự giữa dân Ngài khi Ngài sai Con Một mình “đến với dân riêng của mình” (Jn.1:11) như một “Emmanuel, tức Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt.1:23): “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn.1:14). Phải, “Lời hóa thành nhục thể” chính là “cung thánh của Ta sẽ được dựng nên giữa họ”, đúng như lời tiên tri Eâzêkiên đã báo trước.
Chính dân Do Thái, qua mạc khải thần linh được diễn đạt nơi lịch sử của mình, một phần nào đã cảm nhận được mối tình cao cả tuyệt vời của vị Thiên Chúa là Chúa Duy Nhất của mình này đối với mình, như tình của một người cha đối với con cái. Họ đã nói lên tâm tưởng sâu xa này cho chính Con Thiên Chúa nghe: “Chúng tôi không phải là giòng dõi hoang đàng! Chúng tôi chỉ có một cha đó là chính Thiên Chúa” (Jn.8:41). Phải, chủ yếu Thiên Chúa tỏ mình ra là để riêng dân Do Thái và chung loài người chẳng những nhận biết Ngài là “Đấngï hiện hữu”, hiện hữu ngay trong lịch sử của họ, mà còn nhận biết Ngài là Cha Trên Trời nữa, tức nhận biết bản tính vô cùng toàn hảo của Ngài qua việc Ngài yêu thương, “yêu thương thế gian đến ban Con duy nhất của mình” (Jn.3:16)
“Tôi Tin Kính Thiên Chúa là Cha toàn năng Đấng...”“Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn.4:24), Đấng được Chúa Giêsu “hằng ở nơi Cha tỏ ra” (Jn.1:18) cho chung con người cũng như cho riêng thành phần thuộc về Người, hiện thân nơi các môn đệ đang có mặt bấy giờ, biết rằng Ngài là “Cha các con trên trời” (x.Mt.5:45,48; 23:9), và dạy phải cầu nguyện cùng Ngài là “Lạy Cha chúng con ở trên trời” (Mt.6:9).
Nói đến Thiên Chúa, đến Thượng Đế, đến một Đấng Tối Cao, con người tạo vật vốn hướng về vô biên, lại bị gò bó bất lực trong giới hạn không gian và thời gian, dù không được mạc khải, vẫn tin rằng Ngài phải là một Vị Thần Linh Toàn Năng, tức một Vị Thần Linh có thể giải cứu họ thoát khỏi mọi bất hạnh ở đời này. Thế nhưng, nếu Thiên Chúa chỉ là một Vị Thần Linh Toàn Năng không mà thôi, thì bất cứ quyền lực nào có thể giải cứu con người thoát khỏi mọi bất hạnh hay khỏi bất cứ một khốn khó nào ở đời này, thì đều được họ tôn sùng là Thiên Chúa của họ, như trường hợp dân thành Lystra đã muốn tế lễ thần Phaolô và Banabê vậy (x. Acts 14:8-18). Nếu thế thì Vị Thần Linh Toàn Năng ấy sẽ có thể là tất cả mọi sự, như thần mưa, thần gió, thần âm, thần dương v.v. ngày xưa, hay thần duy lý, thần khoa học, thần kỹ thuật, thần nhân bản v.v. ngày nay, các loại thần tượng do con người tạo ra, chẳng khác gì như con bò được dân Do Thái đúc bằng vàng dựng lên trong sa mạc để sùng bái: “Israel ơi, đây là Thiên Chúa của các người, Đấng đã mang các người ra khỏi Ai Cập” (x.Ex.32:4).
Chính vì thế Thiên Chúa mới cần tỏ mình ra cho con người biết bản tính của Ngài. Qua các kỳ công vô cùng tuyệt diệu và vĩ đại trong vũ trụ vượt quá tầm hiểu biết và tưởng tượng cũng như khám phá của con người, theo lý luận tự nhiên của con người có lương tâm lành mạnh, Kitô giáo đã dễ dàng tin nhận Thiên Chúa là một Vị Thần Linh vô cùng Toàn Năng và Thượng Trí. Tuy nhiên, dựa vào Mạc Khải Thần Linh được Thánh Kinh lưu truyền lại, Kitô giáo còn tin Vị Thần Linh vô cùng Toàn Năng và Thượng Trí này cũng là và phải là Vị Thần Linh Toàn Thiện nữa, như họ vẫn chân nhận và tuyên xưng ở ngay câu đầu tiên trong Kinh Tin Kính của họ: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng”.
Đúng thế, Kitô giáo đặt niềm tin của mình vào thực tại Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện trước thực tại Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng. Sự thật này đã hết sức sáng tỏ ngay trong câu tuyên xưng mở đầu của họ. Ở chỗ, danh xưng “Cha” đã nói lên Thiên Chúa của niềm tin Kitô giáo là một Vị Thần Linh Toàn Thiện, và tĩnh từ “toàn năng” đi kèm với danh xưng “Cha” đây nói lên phẩm tính hay thần lực của Vị Thiên Chúa Toàn Thiện được gọi “là Cha” đó.
Như thế, theo niềm tin Kitô giáo, qua câu tuyên xưng mở đầu Kinh Tin Kính này của họ, thì Thiên Chúa chính thực, theo bản tính của mình, phải là một Vị Thần Linh Toàn Thiện trước khi Ngài tỏ mình ra là một Vị Thần Linh Toàn Năng. Tức là, bất cứ việc gì Thiên Chúa của niềm tin Kitô giáo thực hiện để tỏ mình ra, như Kinh Tin Kính của họ ngay sau đó liệt kê: “dựng nên trời đất”, “nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người”, hay “dùng các tiên tri mà phán dạy” v.v., tất cả và từng việc đều được phát xuất từ bản tính Toàn Thiện của Vị “Thiên Chúa là Cha” này. Nói tóm lại, vì “là Cha”, là một Thiên Chúa Toàn Thiện, Thiên Chúa đã dựng nên con người, đã cứu chuộc con người và thánh hóa con người. Như thế, Thiên Chúa của Kitô giáo, trước hết và trên hết, là một Thiên Chúa Toàn Thiện, một “Thiên Chúa là Cha”.Thiên Chúa là Cha hạ sinh con người bởi Lời/Nước
“Thiên Chúa là Cha” đây là gì, nếu không phải, về ý nghĩa, nói lên yêu thương và sự sống, và về tác động, nói lên việc sinh thành và dưỡng dục thần linh. Trước hết, danh xưng “Thiên Chúa là Cha” của niềm tin Kitô giáo tuyên xưng nói lên ý nghĩa yêu thương và sự sống, đúng như mạc khải thần linh được ghi nhận trong Thánh Kinh Tân Ước: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để ai tin Con sẽ không phải chết nhưng được sự sống đời đời” (Jn.3:16). Sau nữa, danh xưng “Thiên Chúa là Cha” của niềm tin Kitô giáo tuyên xưng nói lên việc sinh thành dưỡng dục thần linh. Thiên Chúa sinh thành con cái loài người, ở chỗ “Ngài ban cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa” (Jn.1:12), và Thiên Chúa dưỡng dục con cái loài người mà Ngài đã thừa nhận làm con (xem Rm.8:15; Gal.4:5), ở chỗ Ngài làm cho họ “đạt đến tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô là đầu” (Eph.4:15).
Thế nhưng, để có thể “trở nên con cái Thiên Chúa”, tức được “Thiên Chúa là Cha” sinh ra hay được Ngài thừa nhận là con cái của Ngài cũng vậy, con người cần phải nhận biết “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn.1:14) là Đức Giêsu Kitô: “Người (Lời) đã đến với dân riêng của mình, song dân riêng của Người không chấp nhận Người. Bất cứ ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa” (Jn.1:11-12). Mà càng “chấp nhận” Đức Giêsu Kitô, tức càng đi sâu vào Đức Giêsu Kitô, càng thấu nhập vào Người, con cái Thiên Chúa sẽ càng trưởng thành, càng lớn lên trong đời sống thần linh: “Chính Người (Đức Kitô) là Đấng đã cắt đặt các vị tông đồ, các vị tiên tri, các vị truyền bá phúc âm, các vị chủ chăn và các vị giảng dạy để phục vụ tín hữu trong việc xây dựng thân thể Đức Kitô, cho tới khi chúng ta nên một trong đức tin và trong nhận thức về Con Thiên Chúa mà thành nên mộït con người hoàn hảo là Đức Kitô tầm vóc vẹn toàn” (Eph.4:13).
Tuy nhiên, để con người “thuộc hạ giới” (Jn.8:23) có thể nhận biết hay “chấp nhận” Đức Giêsu Kitô, nhờ đó họ “được ban quyền trở nên con cái Thiên Chúa”, và cũng nhờ “nhận thức về Con Thiên Chúa mà thành nên mộït con người hoàn hảo là Đức Kitô tầm vóc vẹn toàn”, “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn.4:24) cần phải tỏ mình (mạc khải) cho họ biết Ngài là ai và như thế nào, bằng không, “cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt” (Jn.3:6), con người chỉ nhận biết và chấp nhận ngẫu tượng họ nghĩ ra mà thôi, tức tôn sùng con bò vàng cố hữu của họ thay vì Ngài.
Vậy nếu “Thiên Chúa là Thần Linh” cần phải tỏ mình ra cho con người “thuộc hạ giới” biết Ngài là ai và như thế nào, như Ngài đã tỏ mình cho dân Do Thái biết qua lịch sử thần linh của họ, để con người có thể nhận biết và chấp nhận Ngài đích thực như Ngài đã mạc khải cho Moisen “Ta là Đấng hiện hữu” (Ex.3:14), “ngoài ra không có Chúa nào khác” (Deut 4:35), thì khi “Thiên Chúa là Thần Linh” tỏ mình cho con người là chính lúc Ngài sinh ra con người vào đời sống thần linh, tức là lúc Ngài cho con người được thông dự vào kiến thức thần linh của Ngài, hay là lúc Ngài cho con người biết Ngài như Ngài biết mình. Để rồi, cũng chính lúc con người nhận biết Thiên Chúa như thế, qua mạc khải của Ngài và như mạc khải của Ngài, là lúc con người “được hạ sinh từ trên cao” (Jn.3:3), tức được hạ sinh “vào nước Thiên Chúa” (Jn.3:5), được hạ sinh để sống “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn.17:3).
Đúng thế, theo dự án cứu rỗi của mình, “Thiên Chúa là Thần Linh” đã tỏ mình ra từ từ, cho tới “thời kỳ sau hết này, Ngài đã nói với chúng ta qua Con của Ngài” (Heb.1:2). Tức “Thiên Chúa là Thần Linh” đã tỏ mình cho con người “thuộc hạ giới” biết Ngài là ai và như thế nào, một cách tỏ tường và toàn vẹn nhất, qua Con của Ngài, đến nỗi, như chính Con Ngài đã tuyên bố với dân Do Thái: “Tôi và Cha Tôi là một” (Jn.10:30), và khẳng định với các môn đệ: “Ai thấy Thày là thấy Cha” (Jn.14:9). Như thế, Thánh Kinh Tân Ước chẳng những đã xác tín rất đúng về Đức Giêsu Kitô “là hình ảnh Thiên Chúa vô hình” (Col.1:15), “là phản ảnh vinh quang Cha, là hiện thân đích thực của hữu thể Cha” (Heb.1:3), Thánh Kinh Tân Ước còn xác quyết Đức Giêsu Kitô là chính “sự sống đời đời hằng ở nơi Cha đã tỏ hiện cho chúng ta” (1Jn 1:2). Nếu “sự sống đời đời hằng ở nơi Cha” đây là Đức Giêsu Kitô, mà Đức Giêsu Kitô lại “là phản ảnh vinh quang Cha”, thì “sự sống đời đời hằng ở nơi Cha” đây chính là “tất cả sự thật” (Jn.16:13) hằng ở nơi Thiên Chúa.
Thật vậy, Đức Giêsu Kitô chính là “tất cả sự thật” hằng ở nơi Thiên Chúa, được Phúc Aâm của thánh ký Gioan diễn tả là “Lời hằng ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa” (Jn.1:1), và cũng được chính Lời nhập thể xác nhận với các môn đệ của Người: “Tất cả mọi sự Cha có đều thuộc về Thày” (Jn.16:15). Tóm lại, qủa thật “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời và sự sống này ở nơi Con Ngài. Ai có Con là có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống” (1Jn.5:11-12).Thiên Chúa Là Cha hạ sinh con người bởi Thần Linh
Thế nhưng, để con người “thuộc hạ giới” (Jn.8:23) có thể nhận biết hay “chấp nhận” Đức Giêsu Kitô, nhờ đó họ “được ban quyền trở nên con cái Thiên Chúa”, và cũng nhờ “nhận thức về Con Thiên Chúa mà thành nên mộït con người hoàn hảo là Đức Kitô tầm vóc vẹn toàn”, “Thiên Chúa là Thần Linh” chẳng những phải tỏ mình ra qua Con Ngài và nơi Con Ngài, Ngài còn phải ban Thánh Thần của Ngài cho con người nữa; bằng không, dù không sùng bái ngẫu tượng, con người vẫn dễ bị lôi cuốn chạy theo tên “phản Kitô” (2Jn.7), thành phần “không công nhận Đức Giêsu Kitô đến trong xác thể” (2Jn.7), tức nếu không có “Thần Linh thấu suốt mọi sự” (1Cor.2:10), con người sẽ có thể chấp nhận một Đức Giêsu Kitô giả tạo, không phải bởi Thiên Chúa, mà hậu qủa là “ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống”.
Đó là lý do Chúa Kitô đã báo cho các môn đệ biết rằng: “Cha sẽ nhân danh Thày sai Đấng An Uûi là Thánh Thần đến dẫn dụ các con trong mọi sự” (Jn.14:26). Còn Chúa Thánh Thần, cũng theo lời Chúa Kitô, “là Thần Chân Lý, khi đến, Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật” (Jn.16:13), tức Chúa Thánh Thần, như Chúa Kitô diễn tả, “sẽ truyền đạt cho các con điều Ngài lãnh nhận từ Thày” (Jn.16:14), để làm cho các môn đệ Chúa Kitô càng ngày càng thấu nhập Người hơn, càng đầy Người hơn, càng giống Người hơn, cho đến khi Chúa Kitô hoàn toàn đạt đến tầm vóc hoàn hảo của Người nơi họ. Tầm vóc hoàn hảo của Chúa Kitô đây chính là “tất cả sự thật” nơi Thiên Chúa, “tất cả sự thật” Thiên Chúa muốn mạc khải cho con người qua Đức Giêsu Kitô nhờ Thánh Thần của Ngài. Thánh ký Gioan đã tóm gọn thực tại Ba Ngôi hiệp thông và truyền thông Sự Sống Thần Linh của mình này như sau: “Tất cả mọi sự Cha có đều thuộc về Thày. Đó là lý do tại sao Thày nói Ngài sẽ truyền đạt cho các con điều Ngài lấy từ Thày” (Jn.16:15).
Như thế, “Thiên Chúa là Cha” chẳng những hạ sinh con người trong Đức Giêsu Kitô mà còn nhờ Thánh Thần của Ngài nữa. Và Kitô hữu được hạ sinh vào Sự Sống Thần Linh, “hạ sinh bởi trên cao”, chẳng những “bởi nước” (Lời) mà còn “bởi Thần Linh” nữa (x.Jn.3:5). Thế nhưng, nếu Thánh Thần đã là tác nhân trong việc Mẹ Maria hạ sinh Con Đấng Tối Cao thế nào, Ngài cũng là nguyên lý tác sinh Kitô hữu vào Sự Sống Đời Đời là Con Thiên Chúa như vậy: “Gió muốn thổi đâu thì thổi”, Đấng mà Kitô hữu phải dễ dậy chiều theo tác động của Ngài mà không cần biết “gió từ đâu đến và sẽ đi đâu” (Jn.3:8): “Tất cả những ai được Thần Linh Thiên Chúa dẫn dắt đều là con cái Thiên Chúa”, thành phần “nhận lãnh thần trí thừa nhận để nhờ đó chúng ta kêu lên ‘Abba’ (tức ‘lạy Cha’)... mà đã là con cái, chúng ta cũng là thành phần thừa tự của Thiên Chúa, thừa tự với Đức Kitô” (Rm.8:14,15,17).
Nếu con người được “Thiên Chúa là Cha” sinh hạ vào Sự Sống Thần Linh của Ngài trong Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, tức bằng cách tỏ cho họ biết Con, thì không còn ai hơn Hồn Nhỏ được ban cho đặc ân này (x.Mt.11:25-27): “Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng (trẻ nhỏ)” (Mt.19:14) là thế. Và nếu con người cũng được “Thiên Chúa là Cha” chẳng những sinh hạ mà còn dưỡng dục làm họ lớn lên cho đến khi “được sống và sống viên mãn hơn” (Jn.10:10), bằng cách “tuôn đổ vào lòng (họ) nhờ Thánh Thần là Đấng được ban cho (họ)” (Rm.5:5), thì còn ai hơn Hồn Nhỏ là thành phần “cao trọng nhất trong Nước Thiên Chúa” (Mt.18:4), thành phần thấu hiểu Chúa Kitô, đầy Chúa Kitô nhất, như Đệ Nhất Hồn Nhỏ “đầy ơn phúc” (Lk.1:28) Maria.
Phải, nếu không có Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria không thể nào thụ thai và hạ sinh Con Đấng Tối Cao là Đức Giêsu Kitô thế nào (xem Luca 1:35), Hồn Nhỏ cũng không thể nào thấu hiểu Chúa Kitô và tràn đầy Chúa Kitô như vậy, để có thể trở thành “kẻ cao trọng nhất trong Nước Thiên Chúa”. Hồn Nhỏ qủa là thành phần “được sinh bởi Thần Linh”, tức thành phần “nghe được tiếng gió” (Jn.3:8), nhờ đó được “Thần Chân Lý dẫn vào tất cả sự thật” (Jn.16:13), nghĩa là “có thể cùng với các thánh hoàn toàn thấu hiểu chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Chúa Kitô, cũng như cảm nghiệm được tình yêu này vượt trên tất cả mọi hiểu biết, để đạt đến tầm vóc viên trọn của chính Thiên Chúa” (Eph.3:18-19).