NHỮNG LUẬN ĐOÁN CUỐI THỜI
Theo Phúc Aâm (x.Mt.24:36), không ai có thể biết chắc chắn được ngày giờ nhất định lúc “Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa mà Người đã công bố”, tức biết được đích xác được ngày tận thế? Tuy nhiên, theo tôi, năm 2000 chưa phải là lúc tận thế như người ta vẫn đinh ninh và loan truyền, ngoài ra, thế chiến thứ ba cũng sẽ không bao giờ xẩy ra như người ta vẫn không ngớt lo âu sợ hãí, và theo tiên tri Malachi thì chỉ còn 2 đời giáo hoàng nữa, sau vị giáo hoàng đương kim này, là đến tận thế! Tại sao? Sau đây là những nhận định của tôi về thời cuộc, dựa vào việc suy niệm lời Chúa trong Phúc Aâm để chứng minh những luận đoán vừa rồi.
Trước hết, năm 2000 chưa phải là lúc tận thế. Bởi vì, trong cuốn “Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba”, (Cao-Bùi, 1996), trang 184, tôi đã suy luận như thế này: “Theo dụ ngôn 10 cô phù dâu, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về ngày Chúa đến lần thứ hai, thì lúc Người đến sẽ xẩy ra vào ‘nửa đêm’ (Mt.25:6), nghĩa là lúc tối tăm nhất, và cũng là lúc mọi người ‘thiếp ngủ’ (Mt.25:5), tức lúc mà cây đèn đức tin của họ đã tắt mất lửa đức mến (x.Mt.25:7), hay là lúc không ‘còn đức tin trên thế gian này nữa’ (Lk.18:8). Tuy nhiên, theo tình hình hiện nay cho thấy, các cô phù dâu là Kitô hữu nói chung và các vị chủ chăn nói riêng tất cả vẫn chưa thiếp ngủ hoàn toàn. Trái lại, thế giới càng tối tăm và đông lạnh từ thập niên 1960, thì cũng từ thời điểm này, tức từ biến cố trùng hợp với Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965), Giáo Hội cũng thực sự trở nên ‘ánh sáng muôn dân’ (Lumen Gentium, tên của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội). Thêm vào đó, việc long trọng dọn mừng Đại Năm Thánh 2000 kể từ năm 1994, nhất là từ năm 1997, thời điểm sửa soạn thẳng vào việc mừng này của cả Giáo Hội Công Giáo đã nói lên việc Giáo Hội vẫn còn ‘cầm đèn cháy sáng trong tay’ (Mt.25:1) chờ ‘Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại’ (tên của bức thông điệp mở đầu giáo triều của vị giáo hoàng đương kim ban hành đầu năm 1979) đến. Như thế, Giáo Hội chính là ‘vui mừng và hy vọng’ (Gaudium et Spes, tên của Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội), trong thế giới tân tiến và cho thế giới tân tiến ngày nay. Và Đêm Giáng Sinh 1999 sẽ là Ngưỡng Cửa Hy Vọng cho tất cả nhân loại cũng như cho lịch sử thế giới”.
Sau nữa, thế chiến thứ 3 cũng sẽ không bao giờ xẩy ra. Bởi vì, trong cuốn “Fatima Và Năm 2000” (Cao-Bùi, 1997), tôi đã nhận định thế này: “Đúng vậy, nếu chiến tranh là cách thức Thiên Chúa muốn dùng để trừng phạt tội lỗi của loài người, như lời Mẹ Maria nói ở Fatima khi tiết lộ Bí Mật Fatima phần thứ hai ngày 13-7-1917 là ‘Thiên Chúa trừng phạt tội lỗi bằng chiến tranh’, mà tội lỗi loài người ngày nay còn ghê gớm hơn và nhiều hơn là tội lỗi của họ trước thế chiến thứ nhất và thứ hai nữa, thì đáng lẽ thế chiến thứ ba đã xẩy ra rồi mới phải. Đằng này, thế chiến thứ ba vẫn chưa xẩy ra. Trái lại, thế giới lại càng yêu hàn vui hưởng một thứ văn minh vật chất càng ngày càng tối tân, một cách mê man, như thiên đường duy nhất của mình, sau khi Nước Nga là ngòi chiến tranh trở lại vào chính ngày lễ Giáng Sinh 25-12-1991...” (trang 40). “Tuy nhiên, ngòi chiến tranh không phải là Nước Nga cho bằng chính tội lỗi của loài người. Bằng cớ là Nước Nga đã trở lại rồi mà thế giới chẳng những chưa được hoàn toàn yên vui, ngược lại, loài người còn sống bất ổn hơn bao giờ hết. Loài người đã tội lỗi còn hơn hai thế chiến I và II, thế mà loài người vẫn không bị Thiên Chúa trừng phạt bằng một thế chiến thứ ba. Tôi không nghĩ Thiên Chúa sẽ dùng chiến tranh để trừng phạt loài người nữa... Thấy con người không ăn năn hối cải sau hai trận thế chiến, Thiên Chúa đã để cho sự dữ tăng tiến làm cho con người càng ngày càng vơi tình yêu thương rồi ghét bỏ nhau (x.Mt.24:10,12)... Phải chăng đây là ‘một trận tử chiến sẽ phân thắng bại cho cả đôi bên (giữa ma qủi và Trinh Nữ Maria), như chị Lucia cho biết (ngày 26-12-1957, khi chị tâm sự với cha Fuente là phó giám định trong việc phong thánh cho Phanxicô và Giaxinta), còn đáng sợ hơn cả chiến tranh về thể lý nữa” (trang 63-64). Đúng như thế, theo Phúc Aâm Thánh Mathêu, sau khi nói “các con sẽ nghe thấy chiến tranh giặc giã và những đồn thổi về chiến tranh (như tin đồn về thế chiến thứ ba sẽ xẩy ra chẳng hạn), song đó cũng chưa phải là tận cùng đâu” (Mt.24:6). Thế nên, sau hiện tượng thứ hai trở đi, tức hiện tượng “lòng mến nơi nhiều người đã trở nên nguội lạnh bởi sự dữ gia tăng” (Mt.24:12), Chúa không nói đến chiến tranh nữa.
Sau hết, chỉ còn 3 đời giáo hoàng nữa, kể cả Đức Gioan Phaolô II đương kim, là đến tận thế. Điều tiên đoán này dựa theo sấm truyền (được phổ biến từ năm 1559) của vị thánh tổng giám mục người Aùi Nhĩ Lan mà người ta gọi ngài là tiên tri Malachi (1095-1148). Tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoài Thành Rôma, một đền thờ, theo cuốn Saint Paul’s outside the Walls Rome, bắt đầu được Đức Giáo Hoàng Sylvêtê I cung hiến cùng ngày 18-11-324 với đền thánh Phêrô, ở trên các cột trụ vòng cung chống đỡ chung quanh đền thờ có các bức chân dung của tất cả mọi vị giáo hoàng kể từ thánh Phêrô. Những bức chân dung này bắt đầu được trang hoàng trong Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoài Thành Rôma từ thế kỷ thứ V, được sơn lại vào thế kỷ thứ IX cũng như vào thời Đức Nichola III (1277-1280), và được tiếp tục cho trọn bộ chân dung này bởi Đức Bênêđích XIV (1740-1758). Tuy nhiên, theo vị trí còn lại trong Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoài Thành Rôma này để trang hoàng chân dung của các vị còn lại, được khách hành hương cho biết, thì chỉ còn đủ chỗ cho 3 bức chân dung của 3 vị giáo hoàng nữa thôi, kể cả vị đương kim giáo hoàng Gioan Phaolô II. Nếu sự trùng hợp giữa sấm truyền của tiên tri Malachi về số các vị giáo hoàng với sự sắp xếp các bức chân dung của các vị giáo hoàng trong Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoài Thành Rôma này xẩy ra như thế chắc là phải có một ý nghĩa nào đó.