1.- Hiệp Thông Xă Hội
Hôn Nhân: Khơi Nguồn Xă Hội
C
on người không thể nào hiện hữu nếu thiếu một bản tính bao gồm cả hồn thiêng lẫn xác chất thế nào, th́ kinh nghiệm thực tế cho thấy, con người cũng không thể nào tồn tại và phát triển theo bản tính làm người của ḿnh nếu không có xă hội như vậy. Thậm chí, nếu không tự ḿnh mà có, th́ không có xă hội, tức không có mẹ cha, con người cũng không thể hiện hữu trên đời này như vậy.
Con người chẳng khác ǵ như cá trong nước và chỉ sống bởi nước và nhờ nước. Trái lại, nếu không có cá th́ nước hiện hữu cũng chẳng có nghĩa ǵ. Tức có cá mới có nước. Bởi thế, nước phải có trước cá, như mẹ phải có trước con. Nhưng dù nước có trước cá th́ cũng là để cho cá và chất chứa những mầm mống của cá, như đất chất chứa những hạt giống cho muôn loại thảo mộc vậy. Như thế, xă hội phải có trước con người, chứ không phải con người có trước xă hội.
Thế nhưng, theo lư luận tự nhiên, nếu xă hội là cộng đồng của con người, một cộng động hợp lại bởi nhiều cá nhân con người, tức được làm nên bởi cộng đồng con người, th́ con người phải có trước xă hội, chứ xă hội không thể nào có trước con người. Sách Sáng Thế Kư mở đầu bộ Thánh Kinh Do Thái Giáo cũng cho thấy rơ sự kiện này, cũng chứng thực kinh nghiệm và luận lư tự nhiên ấy. Ở chỗ, Sáng Thế Kư thuật lại rằng sau khi Thiên Chúa Hóa Công dựng nên con người đầu tiên là Adong, đă dựng nên thêm một người nữ nữa là Evà, rồi Ngài đă kết hợp cả hai nhân vật nguyên tổ này lại thành một thân thể, một cộng đồng tiên khởi, mở màn cho xă hội loài người (xem Genesis 2:18-25).
Tuy nhiên, nếu để ư kỹ chúng ta thấy, cho dù về thời gian, xă hội có cụ thể hiện hữu sau cá nhân con người, nhưng về tinh thần, xă hội vốn đă có trước đơn vị con người là phần tử của ḿnh, v́ xă hội ở ngay nơi bản thân của con người phần tử này. Chính v́ thế, như Sách Sáng Thế Kư cho thấy, Evà đă không phải là một con người ngoại tại của Adong, một con người từ đâu tới, mà là một con người phát xuất từ chính con người Adong, và cũng chính v́ thế, v́ xă hội tính đă bẩm sinh nơi bản thân ḿnh, nên con người tiên khởi Adong đă tự nhiên hướng về và mới hướng về Evà, như Sáng Thế Kư cũng thuật lại, qua việc Adong đă tự động nhận biết Evà và nên một với Evà. Phải nói rằng, nếu xă hội chính là bản chất của con người và nơi con người, th́ xă hội quả thực đă được bắt nguồn từ hôn nhân và được h́nh thành bởi hôn nhân. Nói cách khác, hôn nhân chính là hiệp thông xă hội. Chính v́ thế, nếu hôn nhân băng hoại th́ hăy coi chừng sự tồn tại của xă hội.
Hôn Nhân: Tập Tục Xă Hội
Chính v́ xă hội được bắt nguồn từ hôn nhân và được h́nh thành bởi hôn nhân mà ngay từ đầu hôn nhân chưa có những tập tục liên quan đến cưới hỏi như ngày nay, chẳng hạn như những tập tục cưới hỏi theo kiểu Việt Nam, bao gồm những giai đoạn giạm hỏi, đặt trầu cau, đính hôn và kết hôn. Tuy nhiên, cũng chính v́ nếu hôn nhân băng hoại th́ xă hội hăy coi chừng tồn tại, mà xă hội cần phải bảo vệ hôn nhân, bằng việc chứng hôn và chuẩn hôn. Đó là lư do hôn nhân từ từ đă được h́nh thức hóa bởi xă hội và trong xă hội, tùy theo văn hóa địa phương. Nói chung, theo thủ tục hành chánh và xă hội, ngày nay người ta thấy cặp nam nữ nào muốn lấy nhau th́ họ chẳng những đem nhau ra trước công quyền địa phương để xin hợp thức hóa, mà c̣n cùng nhau tŕnh diện với xă hội của ḿnh là gia đ́nh, họ hàng và thân bằng quyến thuộc nữa. Đó là chưa kể đến những lễ nghi về tôn giáo.
Tuy nhiên, không phải những tập tục về hành chánh, xă hội và tôn giáo này là yếu tố thiết yếu làm nên hôn nhân, tức hôn nhân phải được xă hội chứng dự và công nhận hôn nhân mới thành, bằng không hôn nhân bất thành hay không bao giờ thành. Như thế, xă hội này chỉ có những cuộc hôn nhân “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” mà thôi, bằng nếu cha mẹ không đồng ư th́ con cái không bao giờ được lập gia đ́nh với người ḿnh thương. Đúng thế, hôn nhân thành hay không là do hai đương sự có thật ḷng yêu nhau và có muốn dấn thân sống đời vợ chồng với nhau hay chăng. Cuộc hôn nhân ép duyên là một cuộc hôn nhân phi nhân bản và không thành.
Đó là lư do, để mở đầu cho lễ nghi hôn phối của Công Giáo, đôi tân hôn đă được sát hạch có t́nh nguyện lấy nhau chứ không phải bị ép buộc hay chăng. Theo qui luật hôn nhân của Giáo Hội Công Giáo th́ vị linh mục chỉ đóng vai thay Thiên Chúa, Đấng đă thiết lập hôn nhân và xe duyên kết nghĩa con người, trong việc chứng nhận hôn nhân và chúc lành hôn nhân mà thôi, c̣n vai chính của cuộc thành hôn về tôn giáo này chính là đôi tân hôn. Tuy nhiên, không phải v́ ḿnh là chủ hôn làm cho cuộc hôn nhân thành sự, gọi là thành hôn, mà khi hôn nhân bị trục trặc th́ họ cũng có quyền tự động bỏ nhau. V́ hôn nhân do thiên định, là cơ cấu bởi trời chứ không phải bởi người.
Đó là lư do trong thiệp cưới của người Công Giáo bao giờ cũng có câu “Những ǵ Thiên Chúa đă liên kết, loài người không được phân ly” (Mathêu 19:6). Chính v́ hôn nhân là do thiên định và là cơ cấu thần linh như thế, mà một khi muốn thoát ly hay đoạn tuyệt nó, nhất là để lập gia đ́nh khác, đôi phối ngẫu Công Giáo cũng phải được chuẩn chước đàng hoàng. Nghĩa là họ cần phải được các vị thẩm quyền của Giáo Hội họ, một thẩm quyền đại diện Thiên Chúa chứng hôn và chúc hôn cho họ thế nào, cũng sẽ cứu xét để giải hôn cho họ như vậy, nếu có đủ lư do chính đáng. Tức là các vị này xét xem cuộc hôn nhân của họ có thành sự ngay từ ban đầu hay chăng, hay xét xem họ có thực t́nh yêu nhau và tự nguyện lấy nhau ngay từ đầu chăng, bằng không, cuộc hôn nhân của họ vốn không thành, và sau khi được giải, họ có thể được tự do lập gia đ́nh khác mà không lỗi luật Chúa, không trái phép đạo.
Trong khi tôn giáo, như Giáo Hội Công Giáo, chỉ dám đóng vai tṛ giải hôn những ǵ thẩm quyền nàyï cho rằng, nếu được người phối ngẫu xin và xét thấy họ quả thực không hội đủ yếu tố để làm nên hôn nhân ngay từ đầu, th́ xă hội tân tiến Âu Mỹ từ thập niên 1960 lại đóng vai tṛ hủy hôn, nghĩa là cho phép ly dị.
Thật vậy, dù hai vợ chồng đă hoàn toàn tự do luyến ái trước khi lấy nhau, song đến một lúc nào đó không c̣n hợp với nhau như thuở ban đầu nữa, chứ không cần một bên lỗi phạm điều ǵ trầm trọng nghịch với bản chất của đời sống hôn nhân vợ chồng, ngôn từ pháp luật của Mỹ gọi là “no fault”, th́ được quyền ly dị.
Ngoài ra, chiều hướng chung luật pháp bây giờ là không ai bắt buộc vợ chồng phải sống với nhau nữa, một khi họ không c̣n muốn sống với nhau, không thích sống với nhau. Những trường hợp chán sống với nhau này đều được pháp luật liệt kê dưới nhăn hiệu hôn nhân đổ vỡ bất khả cứu văn, “irretrievable breakdown of marriage”.
Chưa hết, luật ly dị c̣n đi đến chỗ cho phép ly dị đơn phương, chứ không cần phải có sự đồng ư của người phối ngẫu, như điều kiện bất khả thiếu để hai người có thể thành sự nên một. Khi lấy nhau cần hai người đồng thuận, đến khi ly dị th́ chỉ cần một người quyết định là đủ.
Hôn Nhân: Biến Thái Xă Hội
Vẫn biết luật pháp có lư của luật pháp, chẳng hạn như luật ly dị, nhất là luật ly dị đơn phương, trước hết và trên hết là để bảo vệ người vợ là phái yếu khỏi bị người chồng là phái mạnh bạo hành, đầy đọa, như những trường hợp xẩy ra vào tiền bán thể kỷ 20 trở về trước, nhất là ở các nước chậm tiến, như ở Việt Nam chẳng hạn. Tuy nhiên, nếu hôn nhân là hiệp thông xă hội th́ bất cứ điều ǵ không theo chiều hướng này, dù có mục đích tốt đến đâu đi nữa, cũng cần phải xét lại, bằng không sẽ khó tránh được những hậu quả tai hại khôn lường, như đă và đang xẩy ra từ khi có luật ly dị tới nay. Nếu hôn nhân băng hoại th́ xă hội hăy coi chừng tồn tại là ở chỗ này.
Không phải hay sao, ngày xưa, khi xă hội loài người c̣n cổ hủ, chưa tân tiến, xă hội đă cho phép hay chấp nhận tục đa thê, coi phụ nữ là hạng người thứ yếu, là thành phần cung phụng đàn ông, kể cả về mặt t́nh dục! Thế nhưng, ngược đời thay, ngày nay, càng tân tiến, con người lại càng hoang dại hơn bao giờ hết, c̣n hoang dại hơn thời cổ hủ xưa kia nữa. Ở chỗ, nếu ngày xưa chỉ có tục đa thê, th́ ngày nay con người chẳng những được phép đa thê mà c̣n được quyền đa phu nữa. Luật ly dị ngày nay đă không cho phép con người, cả vợ lẫn chồng, được quyền lập gia đ́nh với bao nhiêu người ḿnh thích đấy ư?
Chưa hết, luật ly dị c̣n làm cho con người coi hôn nhân chỉ là một món hàng có thể đổi chác, mua về xài xong đem trả, như ở các department stores, Target, K-Mart, Wal-Mart, JC Penny, May Robinson, Macy v.v. Chính v́ có luật được quyền ly dị nên người ta không sợ bị ràng buộc như xưa, trái lại, họ tự nhiên cảm thấy dễ dàng hơn trong việc lấy nhau, nhanh chóng hơn trong việc yêu cuồng lấy vội, bởi v́ thích nhau rồi tại sao không lấy nhau, không hợp th́ bỏ có sao đâu. Như kiểu cứ mua về thử, nếu không xài được hoặc không ưng ư th́ đem trả hay đem đổi ở ngoài tiệm vậy.
Luật ly dị chẳng khác ǵ như luật cho phép dùng súng, thay v́ để tự vệ th́ người ta lại quay ra sát hại lẫn nhau. Chính v́ thế, trước khi lấy nhau, con người văn minh ở các nước tân tiến ngày nay vừa yêu nhau lại vừa sợ nhau. Đến nỗi, nhiều cặp đă làm giấy kê khai của cải với chính quyền trước khi lấy nhau, để pḥng hờ nhỡ ra sau này hôn nhân có bị đổ bể th́ chỉ mất người chứ không mất của. Chính v́ yêu nhau theo kiểu thập tḥ, yêu nhau một cách cân nhắc lợi hại và ăn thua đủ với nhau như thế, yêu nhau mà không dám cho nhau hết, không hoàn toàn tin tưởng nhau như vậy, th́ làm sao có thể sống bền chặt với nhau được, nhất là khi có những xích mích đụng chạm xẩy ra không thể nào tránh hết được trong đời sống hôn nhân gia đ́nh.
Hôn Nhân: Chấp Nhận Xă Hội
Tuy nhiên, với luật pháp cho phép ly dị như thế mới cho thấy cặp nào c̣n bền với nhau là dấu chứng tỏ họ thực sự yêu nhau, không v́ t́nh th́ cũng v́ nghĩa. Đối với họ, có luật ly dị hay chăng cũng không thành vấn đề. Cũng không có một tác dụng ǵ trong những lúc họ đụng độ nhau. V́ họ không coi hôn nhân như là một h́nh thức contract, một h́nh thức hợp đồng, một giao kèo làm ăn với nhau, hay th́ ở dở th́ đi, lời th́ nhào vô, lỗ th́ dẹp tiệm: “anh đi đàng anh, tôi đi đàng tôi, t́nh nghĩa đôi ta có thế thôi”. Chính v́ hôn nhân kiểu thương mại như thế mà con người văn minh ngày nay đă coi hôn nhân chẳng khác ǵ như là một tṛ chơi, và con cái chỉ là một món đồ chơi.
Con người văn minh ngày nay không coi hôn nhân là một thứ tṛ chơi là ǵ, không coi hôn nhân là một thứ thời trang hay sao? Ở chỗ, họ chẳng những đă cho phép nhau ly dị từ thập niên 1960, rồi từ ly dị là một thứ tṛ chơi đă đi đến chỗ không thể tránh được là cho phép phá thai, coi con cái là một thứ đồ chơi, từ thập niên 1970, tức sau đó một thập niên, mà c̣n đi đến chỗ chính thức cho phép đồng tính luyến ái và đồng tính hôn nhân nữa. Ngày 20/12/1999, Tối Cao Pháp Viện tiểu bang Vermont Hoa Kỳ đă qui định rằng tiểu bang phải cho các cặp phối ngẫu đồng tính được hưởng những quyền lợi như những cặp phối ngẫu dị tính. Và tiểu bang Vermont này đă chính thức là nơi đầu tiên trên thế giới hợp thức hóa hôn nhân đồng tính, khi vị thống đốc của tiểu bang này bấy giờ là Howard Dean đă kư chuẩn phê khoản luật hôn nhân đồng tính này ngày 26/4/2000, với hiệu lực kể từ ngày 1/7/2000. Sau đó hai tháng, tức vào tháng 9/2000, quốc hội Ḥa Lan cũng đă chuẩn nhận luật cho phép hôn nhân đồng tính, với quyền lợi giống như các cặp vợ chồng thường, được lập hôn ước ở ṭa thị chính (city hall), được có con nuôi, và được ly dị.
Tuy nhiên, cho dù xă hội có lập ra những khoản luật ly dị và đồng tính hôn nhân đi nữa, những khoản luật phi hôn nhân và phản hôn nhân là hiệp thông xă hội đi nữa, nếu con người không chiều theo chúng, không lợi dụng chúng và không thi hành chúng, th́ chúng cũng chẳng có tác hiệu ǵ, chúng cũng không thể nào trở thành phổ thông, trái lại, chúng cũng chỉ là một thứ văn hóa frozen - đông lạnh, những thứ văn hóa đóng hộp vậy thôi, những thứ thực phẩm dự trữ chẳng béo bổ ǵ, đến khi hết hạn th́ tự nhiên được quẳng vào thùng rác, không tiếc xót ǵ.
Những cặp hôn nhân không bị luật ly dị ngày nay chi phối chẳng những không coi hôn nhân như một giao kèo làm ăn, trái lại, họ c̣n coi hôn nhân như là một thắt kết, một giao ước, mà họ đă tự nguyện hứa quyết với nhau, và v́ tự trọng, họ cố gắng trung thành với lời giao ước của ḿnh.
Đây là những cặp vợ chồng, vào một lúc nào đó, có thể chỉ sống với nhau v́ nghĩa hơn là v́ t́nh, v́ con cái hơn là v́ nhau, v́ nhau theo kiểu romantic như thuở ban đầu t́nh tứ ấy. Nhưng ít là họ c̣n bền với nhau. Không gượng ép. Mà chịu đựng. Một thứ chịu đựng trong thời đại văn minh vật chất chỉ biết hưởng thụ theo cá nhân chủ nghĩa, chỉ t́m cách tránh né hay away from những ǵ không hợp với ḿnh, làm cho ḿnh khó chịu, th́ sức chịu đừng này có thể sẽ đưa những cặp hôn nhân anh hùng này đến một mức độ cao nhất của hôn nhân, mức độ sống vocation của hôn nhân, hay sống hôn nhân theo ơn gọi. Tức là một cuộc sống hôn nhân v́ trời hơn là v́ ḿnh, và cho đời hơn là cho ḿnh. Họ chính là những cặp vợ chồng, hay ít là một trong hai người, chấp nhận nhau từ bàn tay ông trời, từ chính Đấng Tối Cao, Đấng mà họ thâm tín rằng đă xe duyên kết nghĩa cho họ, đă xui khiến họ gặp nhau rồi lấy nhau. Bởi thế, về phần ḿnh, với niềm tin là văn hóa thần linh, họ không bao giờ bỏ nhau, dù người phối ngẫu của họ có thế nào đi nữa.
V́ xă hội, theo dự án thần linh, ở ngay nơi bản thân con người phái tính, như đă nhận định ở đoạn mở đầu, mà khi vợ chồng chấp nhận nhau, sống đời với nhau và nên một với nhau, th́ hôn nhân quả thực là hiệp thông xă hội và làm cho xă hội hiệp thông vậy!