14.- Tương Lai Xă Hội

  

 

Tre Già Măng Mọc 

 

N

ói đến giới trẻ là nói đến một cái ǵ vui tươi, mới mẻ, linh hoạt, đầy sức sống. Tất cả những tính chất này của giới trẻ làm cho chúng ta nghĩ đến xuân, một mùa thời gian mới mẻ nơi thời gian, tươi trẻ nơi không gian và vui vẻ nơi nhân gian.

 

Thật vậy, theo tôi, nếu thời tiết thiên nhiên một năm thường có bốn mùa thế nào, th́ một ngày sống cũng như một đời người cũng có những thời điểm xuân, hạ, thu, đông như vậy.

 

Không phải hay sao, theo bản chất và đặc tính bẩm sinh của mỗi mùa trong năm, đối với ngày sống của con người, mùa xuân ở vào buổi sáng mát mẻ, mùa hè ở vào buổi trưa nóng bức, mùa thu ở vào buổi chiều tàn phai, và mùa đông ở vào buổi tối mát lạnh? Đời sống của con người cũng thế, con người sống trong mùa xuân của cuộc đời là lúc họ c̣n trẻ trung mới lớn, thời điểm được gọi là tuổi thanh xuân, thường kéo dài từ khi mới sinh ra cho tới khi họ hết phát triển về thể lư ở vào tuổi 25.

 

Sau đó, con người bắt đầu bước vào mùa hè của cuộc đời, thời điểm con người ra trường, bắt đầu t́m kiếm công ăn việc làm và lập gia đ́nh, tức thời điểm “tam thập nhi lập”, thời điểm con người chẳng những tạo dựng cơ nghiệp mà c̣n lập thân nữa, và con người đạt đến tột độ của mùa hè cuộc đời này khi họ bước vào tuổi “tứ nhập nhi bất hoặc”, tuổi khôn ngoan, tuổi thường đóng những vai tṛ và chức vụ quan trọng trong xă hội, cả về dân sự lẫn tôn giáo.

 

Thế rồi, cuộc đời con người sẽ vào thu, tuổi down hill, khi sức khỏe của họ bắt đầu xuống, với những dấu hiệu đổi thay nơi thân xác của họ, như tóc bắt đầu trở thành hoa râm, mắt bắt đầu đeo kính lăo, nữ hết kinh nguyệt v.v. tức con người bắt đầu bước tới thời điểm “ngũ thập nhi tri thiên mệnh” của ḿnh.

 

Sau hết, mùa đông cuộc đời sẽ đến với con người khi họ về hưu, thường ở vào tuổi từ 65 đến tuổi “thất thập cổ lai hi”, cho đến khi họ thực sự nằm xuống, với một thân xác hoàn toàn lạnh ngắt mùa đông.

 

Nếu luật tuần hoàn chi phối thiên nhiên vũ trụ thế nào, điển h́nh là bốn mùa thời tiến xuân hạ thu đông, tuần hoàn từ mới tới cũ, như từ xuân tới đông, rồi lại tuần hoàn từ cũ sang mới, như từ đông sang xuân thế nào, nó cũng chi phối cả xă hội loài người như vậy. Đó là lư do Việt Nam ta có câu: “tre già măng mọc”.

 

Thật vậy, tuổi trẻ hay giới trẻ chính là thành phần măng mọc lên để dần dần thay thế cho thành phần cao niên tre già trong xă hội. Theo tiến tŕnh của lịch sử loài người, từ khi bắt đầu có loài “nhân linh ư vạn vật” hiện hữu trong vũ trụ hữu h́nh đến nay, th́ xă hội loài người đang tiến theo đà “con hơn cha nhà có phúc”, v́ xă hội của họ càng ngày càng văn minh về vật chất cũng như về nhân bản hơn.

 

Trong xă hội của người Việt Nam hải ngoại cũng cho thấy rơ điều này. Ở chỗ, chẳng hạn, từ những gia đ́nh (đă được một số Người Việt hải ngoại gọi là) “danh ca” ở Việt Nam, sang tới mảnh đất cơ hội - opportunity land Mỹ quốc này, đă xuất hiện những kỹ sư, luật sư, bác sĩ, ở những khu nhà giầu, nhà sang, nhà mới, nhà kiểu, đi những xe kiểu nhất, tân nhất, mắc nhất v.v.

 

 

Con Hơn Cha Nhà Có Phúc

 

Nói như thế không có nghĩa là nghề đánh cá là đồ bỏ c̣n nghề kỹ sư, luật sư, bác sĩ mới đáng kể. Thật ra, tự bản chất của ḿnh, ngoại trừ những việc phản luân thường đạo lư, như nghề ăn trộm ăn cắp, nghề làm đĩ làm điếm, nghề đánh thuê giết mướn, nghề buôn lậu gian thương v.v., tất cả mọi ngành nghề đều cao quí và đáng trọng.

 

Trước hết, là v́ khả năng trời phú bẩm cho mỗi người để họ có thể dùng nó góp phần vào việc phục vụ và xây dựng xă hội loài người.

 

Sau nữa là v́ sự quan trọng và cần thiết của mỗi ngành nghề trong guồng máy xă hội, không phải chỉ do các ngành nghề kỹ sư, luật sư và bác sĩ mới là những nghề làm cho xă hội này tồn tại và phát triển, mà c̣n phải có các người nông phu trồng cấy và các tay ngư phủ đánh cá nữa, bằng không, càng là kỹ sư, luật sư, bác sĩ càng chết sớm trong nạn đói năm 1945 ở Việt Nam ngày xưa.

 

Sau hết, c̣n là v́ quyền chọn lựa của mỗi người nữa, chẳng hạn như ở Mỹ có nhiều người học ra trường với cấp bằng kỹ sư, nhưng sau đó lại nhào vô làm cái nghề gọi là “phi thương bất phú”, tức nghề buôn bán, bán bảo hiểm, bán nhà cửa, bán xe hơi, bán đồ đạc furniture, mở siêu thị, mở nhà hàng, mở tiệm bán máy móc, mở tiệm sửa xe v.v.

 

Đúng vậy, nếu nghề nghiệp tự bản chất là tốt th́ chỉ khi nào con người không méo mó khi hành nghề của ḿnh, họ mới thực sự phục vụ cho xă hội, nghề của họ mới có ích cho xă hội, bằng không, nó sẽ trở thành một dụng cụ phá hoại xă hội. Chẳng hạn làm luật sư để biện hộ cho công lư th́ lại đi t́m cách gian lận tiền bồi thường của các hăng bảo hiểm xa hơi, hay cố tranh căi để bênh vực cho những người gian ác tác hại xă hội. Chẳng hạn làm bác sĩ để cứu mạng con người th́ lại đi giúp phá thai, xui phá thai, hay đi lậu tiền thẻ bệnh Medi-Cal/Medicaid của chính phủ.

Chính v́ nghề nghiệp không làm nên giá trị con người, cho bằng tinh thần tự trọng của con người cũng như nhân cách của con người, mà “con hơn cha nhà có phúc” không phải ở tại kiến thức khoa học của giới trẻ hay khả năng kỹ thuật của họ. Nếu xă hội loài người mỗi ngày cần phải được tiến triển hơn nữa, về cả phương diện văn minh vật chất lẫn nhân bản, th́ tương lai của xă hội không phải là chính đám giới trẻ với những vị bác sĩ hay luật sư trên đây, và cũng không thể nào lại ở trong tay của đám giới trẻ này.  

 

 

Chứng liệt kháng nơi tre già

 

Tuy nhiên, định luật nhân quả khách quan và tổng quan cho thấy cây tốt th́ sinh trái tốt, cây xấu th́ sinh trái xấu, cây tốt không thể sinh trái xấu và cây xấu không thể sinh trái tốt (xem Mathêu 7:17-18). Bởi thế, giới trẻ không thể nào là tương lai, là hy vọng cho một xă hội sống văn minh yêu thương, nếu họ không được thành phần tiền bối khả kính của họ giáo dục họ sống theo văn hóa sự sống.

 

Trái lại, thực tế ngày nay cho thấy, giới trẻ vô tội đáng thương c̣n bị thành phần đi trước tác hại một cách phũ phàng trắng trợn nữa. Thế hệ già đi trước hiện nay không tác hại thế hệ trẻ đi sau là ǵ, khi thành phần tiền bối theo trào lưu cá nhân chủ nghĩa và hưởng thụ sát hại mầm sống tuổi trẻ ngay trong bụng ḿnh, đến nỗi, theo tín liệu của các hăng bán bảo hiểm nhân thọ cho biết, ngân quĩ hưu trí của Liên Bang Hoa Kỳ chẳng bao lâu nữa sẽ không c̣n đủ cho thành phần trẻ hiện nay sau này về già được hưởng nữa, một thành phần trẻ càng ngày càng ít đi v́ nạn phá thai đang phải nai lưng ra để bảo tŕ quĩ hưu trí cho thành phần già.

 

Việc con người phá thai với mục đích ban đầu là để kiểm soát dân số là việc con người thực sự đang đi đến chỗ tự diệt và tuyệt giống vậy. Bản thống kê của Trung Tâm Kiểm Soát và Ngăn Ngừa Bệnh Tật của Hoa Kỳ cho biết năm 1997, có 1.429.577 vụ phá thai được chính thức báo cáo, tức có gần 1 triệu rưỡi thai nhi vô tội năm ấy bị chính người mẹ của ḿnh sát hại oan uổng.

 

Chưa hết, thế hệ đi trước chẳng những sát hại sự sống thể lư của thế hệ đi sau, mà c̣n sát hại cả sự sống tâm linh của thế hệ đi sau nữa, ở chỗ, thế hệ trước làm gương mù gương xấu cho thế hệ sau, bằng việc làm không thích đáng, thậm chí xấu xa của ḿnh, cũng như bằng những hành động thiếu nhân cách và vô trách nhiệm của ḿnh.

 

Trước hết, người lớn tác hại sự sống tâm linh người trẻ bằng việc làm của ḿnh ở những chương tŕnh giáo dục tính dục - sex education, những chương tŕnh chỉ cách cho giới trẻ đang tuổi ṭ ṃ và phát triển sinh lư làm sao để làm t́nh cho khỏi có thai, nhất là khỏi chứng liệt kháng AIDS. Giới trẻ c̣n bị người lớn đầu độc bằng những thứ phim ảnh, video, truyền h́nh, tranh ảnh, sách báo bạo động và dâm ô. Theo thống kê cho biết, nguyên tại California thôi, năm 1986, có 52.718 thanh thiếu nữ sinh con ngoại hôn, trong đó có 1/3 ở vào tuổi vị thành niên. Cũng theo bản thống kê này, mỗi ngày tại California có 385 em gái vị thành niên khám phá ra là ḿnh đă có thai.

Sau nữa, người lớn chẳng những sát hại sự sống tâm linh giới trẻ bằng những việc làm không thích đáng của ḿnh, như những việc giáo dục tính dục, hay những việc xấu xa của ḿnh, như việc truyền thông tính dục, mà c̣n sát hại chúng bằng chính hành động thiếu nhân cách và vô trách nhiệm của ḿnh nữa.

 

Nếu tầm vóc trọn lành hoàn hảo của con người là chỗ con người biết yêu thương, hy sinh phục vụ, nhẫn nại thứ tha, trở nên một con người quốc tế, một con người của mọi sự cho mọi người, sống với ai cũng được, mọi người là anh chị em của ḿnh, th́ khi thế hệ đi trước cứ động một tí là ly dị họ đă không sát hại tâm linh của thế hệ đi sau sao?

 

Nếu thế hệ đi trước không biết yêu thương nhau th́ họ làm sao có đủ tư cách và khả năng bảo thế hệ đi sau phải thương yêu nhau thế nào được. Đó là lư do vấn đề giáo dục con người ngày nay đă bị hội chứng liệt kháng AIDS, tức không c̣n thế giá và khả năng giáo dục nữa.

 

Nếu thế hệ đi trước cứ đối xử với nhau bằng luật “mắt đền mắt răng đền răng”, như t́nh h́nh ở Trung Đông, giữa phe Palestine thực hiện những cuộc khủng bố tấn công, với phe Do Thái lại ra tay trả đũa bằng những cuộc tấn công khủng bố, hay ở những xă hội cực đoan kỳ thị tôn giáo, kỳ thị chủng tộc, không biết tôn trọng quyền lợi và bản chất đặc thù về văn hóa hay tôn giáo của nhau, th́ thế hệ đi sau làm sao lại không bị di truyền bởi gịng máu nghi kỵ và hận thù của họ.

 

Điển h́nh nhất là vụ thanh thiếu niên ở Pháp nổi loạn từ ngày 27/10/2005, đốt phá cả gần chục ngàn chiếc xe và hằng trăm dinh thự khắp đất nước này, trong ṿng cả một tháng trời, bất chấp lệnh giới nghiêm ở địa phương, đă cho thấy hậu quả gây ra bởi một xă hội người lớn tỏ ra kỳ thị và bỏ rơi giới trẻ nói chung và giới trẻ không thuộc bản quốc nước này nói riêng.

 

 

Chứng băng hoại nơi măng mọc

 

Ngày 5/7/2002, Màn Điện Toán Zenit đă phổ biến một tín liệu là, theo bản thăm ḍ của Viện Đại Học Tel Aviv th́ có 40% giới trẻ Do Thái và Palestine không tin vào ḥa b́nh và không muốn trở về với việc thương thảo nữa. Con số này rất quan trọng, v́ dân số Palestine gần một nửa ở dưới 14 tuổi, và dân số Do Thái có 1/3 là c̣n thuộc tuổi học đường. Cuộc thăm ḍ này được thực hiện bằng cuộc phỏng vấn 1.197 em 15 tuổi, trong đó có 645 em Do Thái ở Giêrusalem, và 552 em Palestine ở các trại tị nạn Ranallah và Bethlehem. Từ khi bắt đầu t́nh trạng intifada vào năm 2000 đă có 191 em trai dưới 15 tuổi bị giết chết, trong khi đó có 70% vị thành niên Palestine và 30% trẻ em Do Thái đang bị căng thẳng về những bạo loạn hiện nay. Nhà báo Guido Olimpo tờ Corriere della Sera ở Giêrusalem nói với Đài Vatican là thái độ của giới trẻ Do Thái và Palestine ở đây cũng dễ hiểu, v́ “không c̣n hy vọng ǵ ở đây nữa, ḥa b́nh đă chết mất rồi. Những hành động bạo lực của các nhóm Palestine, những cuộc tấn công của người Do Thái và các cuộc hành quân trong các Khu Vực, đă làm tiêu ma niềm tin tưởng mất rồi. Những cuộc thương thảo bị cho là mất giờ và chẳng đi đến đâu cả. Những phản ứng về thể lư cũng đă xẩy ra ở đây, như rùng ḿnh và khó ngủ về đêm, nhất là trong số trẻ em Palestine. Những ai sống ở các trại tị nạn càng bị căng thẳng hơn nữa, bởi những cuộc chiếm đóng, những chiếc trực thăng và những chiếc xe tăng tầu ḅ. Giới trẻ Do Thái sợ ra khỏi nhà, đi trên xe buưt hay đi coi chớp bóng v́ liều ḿnh bị tấn công”.

 

Hậu quả của một xă hội bạo loạn từ trong gia đ́nh đến ngoài xă hội ở khắp nơi trên thế giới từ hậu bán thể kỷ 20 tới nay cho thấy giới trẻ tỏ ra càng ngày càng chán chường, như trường hợp giới trẻ ở Trung Đông hiện nay, càng ngày càng chán sống, chẳng những bằng những nghiện hút cho siêu thoát cuộc đời vô nghĩa này được lúc nào hay lúc đó, mà thậm chí c̣n bằng cả việc tự hủy diệt mạng sống đang phơi phới của ḿnh nữa.  The Jackson Foundation là một cơ quan bất vụ lợi được thành lập với mục đích là để chỉ dẫn cho các phụ huynh, thày cô và chính giới trẻ biết về việc giới trẻ tử tự. Hội bất vụ lợi này mang tên của một con người trẻ, Jason Flatt, được thành lập từ ngày 16/7/1997, ngày con người trẻ 16 tuổi, yêu đời, lắm bạn, năng động này tự tử bằng khẩu súng 8 ly trong pḥng ngủ của ḿnh. Theo thống kê của hội giúp ngăn ngừa giới trẻ tự tử này th́ tự tử là tác nhân thứ hai gây tử vong nhiều nhất cho giới trẻ từ 15 đến 19 tuổi, nhất là vào năm 1992; giới trẻ tự tử đă tăng gấp ba lần từ năm 1970; từ năm 1980, số giới trẻ từ 10 đến 14 tuổi tự tử tăng lên 128%; cứ 1 tiếng 45 phút là có một con người trẻ tự tử; trung b́nh mỗi năm có từ 5 đến 7 ngàn mạng sống trẻ bị tiêu vong v́ tự tử; 60% học sinh trung học cho biết là đă có ư tưởng tự tử ít là một lần trong đời; giới trẻ tự tử bằng súng gần 70% trong năm 1990, con số tỉ lệ này tăng hơn 20% từ năm 1970.

 

 

Cải lăo hoàn đồng

 

Nếu “tre già măng mọc” kiểu này th́ không biết xă hội loài người sẽ đi về đâu, và giới trẻ có c̣n là tương lai của xă hội, là hy vọng của thế giới nữa chăng, hay trái lại, sẽ trở thành tai họa cho xă hội, trở thành tai ương xă hội?

 

Đó là lư do chúng ta cần phải xét lại kỹ lưỡng và toàn bộ vấn đề giáo dục. Trước hết, chúng ta cần phải để ư tới đối tượng của giáo dục là chính con người thụ huấn, với tất cả những yếu tố làm nên con người thụ huấn này là nhân vị, nhân phẩm và nhân cách của họ. Sau nữa, chúng ta cũng cần phải chú trọng tới tất cả mọi khía cạnh phát triển của con người thụ huấn này, về phương diện tâm sinh lư, tâm linh và luân lư. Sau hết, chúng ta c̣n cần phải t́m cách để làm sao thực hiện được việc giáo dục một cách thích đáng nhất, xứng hợp nhất và hiệu nghiệm nhất, tức thực hiện nghệ thuật giáo dục vậy, để có thể giúp con người thụ huấn thành nhân và vào đời. Tất cả những vấn đề vừa được liệt kê chúng ta sẽ bàn đến trong loạt bài về chủ đề giáo dục, loạt bài được mở đầu bằng đề tài “Giới Trẻ Tương Lai Xă Hội” đây.

 

Trong cuộc đời phục vụ giới trẻ của ḿnh, với tư cách là một giáo sư trung học ở Việt Nam trước năm 1975, cũng như với tư cách lănh đạo một phong trào giới trẻ tại Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1990 tới nay, nhất là với tư cách làm cha của 3 người con, qua những ǵ tôi đă tận mắt chứng kiến thấy, tuy không nhiều nhưng cao cả, tuy âm thầm nhưng mănh liệt, tôi cảm nghiệm thấy những điều rất chân thật sau đây: thứ nhất, giới trẻ hết sức khao khát chân thiện mỹ, khao khát hơn ai hết, t́m kiếm hơn ai hết; thứ hai, bởi vậy chúng rất cần có người dẫn dắt khôn ngoan và có uy tín, người chúng cảm phục và nghe theo; thứ ba, chúng có rất nhiều ưu tư và tâm sự cuộc đời, nhiều khi chúng cảm thấy hết sức bối rối và có những tâm tưởng hoàn toàn sai lạc một cách ngây thơ, cần chia sẻ và tâm sự với những ai chúng tin tưởng; thứ bốn, nếu không được hướng dẫn đàng hoàng, không t́m thấy một cố vấn tối cao khả tín, chúng sẽ đi t́m chân thiện mỹ ở những nơi hoặc ở những thứ hợp với bản năng hạ cấp, và sẽ chạy theo đam mê lăng loàn của chúng, những ǵ có thể đáp ứng những đ̣i hỏi tự nhiên cấp thời của chúng.

 

Với những cảm nghiệm này, tôi thâm tín rằng: giới trẻ chắc chắn sẽ là hy vọng cho loài người, là tương lai của xă hội, nếu người lớn chúng ta thực sự muốn trở nên những con người trẻ như chúngï, và vui vẻ tự động t́m đến với chúng, sống với chúng như những con người trẻ. Nhiều người quen thân với tôi, sau một thời gian xa cách, gặp lại tôi cách đây ít lâu, khen tôi là trẻ trung, tôi đă mỉm cười đáp lại: “Chắc là nhờ sống với giới trẻ đó”. Thật vậy, dù đáng tuổi cha tuổi chú của nhóm giới trẻ tôi đang phục vụ, nhưng tôi vẫn được chúngï gọi là “anh”, một tiếng “anh” chẳng những rất thân t́nh mật thiết mà c̣n rất trẻ trung yêu đời nữa. Đáp lại, tôi đă nhiều lần chân t́nh nói với các em là: “Cám ơn các em vẫn c̣n tiếp nhận một con người già đời như tôi!”. Tóm lại, đối với tôi, “cải lăo hoàn đồng” chính là đường lối hay nhất để thấy được Giới Trẻ Tương Lai Xă Hội vậy.