15.- Con Người Thụ Huấn

   

 

Yếu Tố Làm Người 

 

N

ếu con người, trước khi vào trần gian cần phải được thụ thai, cưu mang và sinh nở bởi cha mẹ thế nào th́ trước khi thành nhân vào đời họ cũng cần phải được giáo dục, được thụ huấn để làm người như vậy. Thật thế, con người không phải chỉ là một hữu thể có diện mạo, vóc dáng và h́nh hài như con vật, biết di động, ăn uống, tiêu hóa, bài tiết, tuần hoàn và hô hấp như con vật, được sinh ra rồi chết đi như tất cả mọi sinh vật, mà c̣n có một cái ǵ “linh ư vạn vật” nữa, tức c̣n có một cái ǵ đó làm cho loài người nói chung và từng người nói riêng hoàn toàn trổi vượt hơn tất cả mọi vật trong vũ trụ hữu h́nh này, một cái ǵ đó vô giá không ǵ có thể sánh được và đánh đổi được, một cái ǵ làm cho con người nghiễm nhiên trở thành chủ nhân ông của vũ trụ.

 

Phải, cái “linh ư vạn vật” nơi con người đây là ǵ, nếu không phải, trước hết, là yếu tố hồn thiêng nơi bản tính của con người, một yếu tố làm con người có một sự sống nội tâm, với những sinh hoạt tâm lư, như suy nghĩ, lư luận và phán đoán bằng trí khôn, như ước vọng, chọn lựa và quyết định bằng ư muốn, như cảm nhận, hoài niệm và mong mỏi bằng kư ức, như thông đạt, bày tỏ và phản ứng bằng thái độ v.v.

 

Thế nhưng, thực tế cho thấy, những sinh hoạt tâm lư ấy nơi con người, ngoài trường hợp bị khuyết tật về tâm trí như khù khờ, hay bị khuyết tật về tâm thần như điên khùng, nhiều khi làm cho con người đi đến chỗ hầu như mất cả nhân tính, với những tác hành chẳng khác ǵ con vật, tác hành theo luật rừng mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, như cướp của, giết người, hiếp dâm, thậm chí c̣n có những hành vi cử chỉ thua cả con vật nữa, như loạn luân, đồng tính làm t́nh v.v.

 

Đúng thế, những sinh hoạt nội tâm của con người được tỏ ra bằng những tác hành chẳng khác ǵ con vật hay thua cả loài vật ấy chứng tỏ con người “linh ư vạn vật” không phải chỉ có nguyên yếu tố khách quan là hồn thiêng, mà c̣n ở tại yếu tố chủ quan là nhân phẩm, nhân vị và nhân cách của con người nữa, những ǵ chứng tỏ con người thực sự là người và làm người, những ǵ mà những nhà giáo dục, như cha mẹ, thày cô và chuyên viên cố vấn không thể không biết đến, không chú trọng, nếu họ muốn chu toàn chức phận cao cả nhất trên đời của ḿnh là giáo dục con người hậu sinh, một việc làm khó nhất trên trần gian. Nhân phẩm đây là không phải là phẩm chất của con người cho bằng là phẩm giá của con người. Nhân vị đây không phải là địa vị của con người cho bằng ngôi vị của con người. Và nhân cách đây không phải là cách sống của con người cho bằng tư cách của con người.

 

 

Nhân Phẩm Làm Người

 

Nhân Phẩm là một giá trị bẩm sinh, phổ quát và bất biến của con người. Nhân Phẩm là giá trị bẩm sinh của con người, do trời ban cho, chứ không phải xă hội thí cho con người cái giá trị đó, tức là chính v́ họ là người, một loài có một bản tính phản ảnh thần linh và có tính cách linh thiêng cao cả vượt trên tất cả mọi sự hữu h́nh trên đời, nên họ có giá trị bẩm sinh đó, không ai được thay đổi giá trị bất biến này, lại càng không được vi phạm đến giá trị phổ quát này. V́ Nhân Phẩm là một giá trị phổ quát và bất biến của con người, nên cho dù con người có bị tật nguyền về thể lư, như què quặt đui mù, dị diện xấu dạng, hay về tâm trí, như ngu dốt điên khùng, đam mê nết xấu, thậm chí về cả luân lư, như gian ác xấu xa, hoang đàng tội lỗi v.v., cũng không ai được phép khinh thường họ.

 

Lịch sử của loài người đă phải mất cả bao nhiêu ngàn năm từ khi con người mới hiện hữu trên trái đất này mới ư thức được nhân phẩm thực sự của ḿnh qua Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc công bố ngày 10/12/1948, với khoản thứ nhất như sau: “Tất cả mọi con người được sinh ra có tự do và b́nh đẳng về phẩm giá cũng như về quyền lợi”.

 

Bởi thế, trong lănh vực pháp luật, công quyền phải trừng phạt phạm nhân chẳng những một cách xứng với nhân phẩm của họ, mà c̣n làm sao để cải tiến nhân cách của họ bằng h́nh phạt nữa. Bởi thế, tất cả những trại tập trung của Đức Quốc Xă thời Thế Chiến Thứ Hai, hay các trại cải tạo trong chế độ Cộng Sản sau Thế Chiến Thứ Hai, hoặc án tử h́nh ở hết mọi quốc gia trên thế giới từ trước đến nay v.v. đều là những ǵ phi nhân, phạm đến nhân phẩm cao quí. Đó là lư do, Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc đă ấn định ở khoản 4: “Không ai phải bị bắt làm nô lệ hay tôi mọi; tất cả mọi h́nh thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm chỉ”, và ở khoản 5: “Không ai phải bị hành sử hay trừng phạt một cách tàn bạo hay dă man, nhục nhă và đê hèn”.

 

Trong lănh vực y khoa, nhân phẩm c̣n bị hạ nhục khi con người được thụ thai bằng ống nghiệm, bằng những phương pháp truyền sinh ngoại nhiên, không phải do chính tác động yêu thương ân ái của cha mẹ. Cũng thế, nhân phẩm cũng bị làm nhục khi con người mắc bệnh bất trị bị giết chết một cách êm dịu với mục đích để loại trừ đi một gánh nặng cho xă hội.

 

Trong lănh vực sinh hoạt xă hội, hà hiếp bóc lột nhau cũng là hành động phạm đến nhân phẩm. Lăng mạ xỉ nhục, nói hành nói xấu nhau cũng là những hành vi cử chỉ phạm đến nhân phẩm của nhau. Nghĩ xấu cho nhau hay nghi ngờ cho nhau những thứ xấu xa mà không có chứng cớ khả tín rơ ràng cũng phạm đến nhân phẩm của nhau. Chỉ tin ḿnh mà không tin người cũng là thái độ không coi trọng nhân phẩm của nhau. Thái độ vơ đũa cả nắm cũng phạm đến nhân phẩm của những người vô tội bị oan lây bởi những hành động xấu của một số làm bậy. Trọng phú khinh bần cũng là thái độ xúc phạm đến nhân phẩm của người nghèo.

 

Thậm chí giầu sang phú quí đến độ tiêu xài một cách hoang phí, ăn không hết đổ đi, quần áo thời trang treo đầy cả tủ nay c̣n mặc mai đă thành đồ cổ bỏ đi, không để ư ǵ đến những người nghèo khổ chung quanh ḿnh, cũng phạm đến nhân phẩm của thành phần bần cùng khốn khổ trong xă hội, thành phần không có đủ của ăn, áo mặc, nhà ở, thành phần rất cần đến những thứ thừa thải của họ để sống c̣n và hưởng dùng.

 

Gặp một người ăn xin ở đầu đường xó chợ, có thể giúp đỡ họ mà chẳng những không làm lại c̣n viện lư bênh vực cái ích kỷ của ḿnh bằng ư nghĩ cho họ là con người lười biếng, không chịu làm ăn sinh sống, nên đáng kiếp, cũng là thái độ phạm đến nhân phẩm của con người đáng thương đó v.v. Nhân phẩm của con người không mất giá v́ nghèo, nhưng có thể và rất dễ mất đi v́ giầu sang phú quí.

 

Trong lănh vực luân thường đạo lư, con người cũng có thể tự làm nhục nhân phẩm của ḿnh khi bán thân làm điếm, vụng trộm ngoại t́nh, ăn trộm ăn cắp, rượu vào nói bậy, văng tục chửi thề, tham quyền cố vị, ỷ thế cậy quyền, ngang ngược lộng hành, đút lót hối lộ, nịnh bợ vuốt đuôi, ăn bám ỷ lại, “ném đá giấu tay”, “ăn độc chốc mép”, “cả giận mất khôn”, “giận cá chém thớt”, lẫn tránh trách nhiệm, sợ hăi chối quanh, gian lận lừa đảo, tranh giành cướp đoạt, “ăn cháo đái bát”, thất trung bội hứa, ngả theo chiều gió, nhỏ mọn chấp nhất v.v.

 

Trong lănh vực giáo dục, những việc phạm đến nhân phẩm, làm mất nhân phẩm, hay hạ nhục nhân phẩm của con người thụ huấn đó là đánh phạt họ cho bơ tức, thậm chí đánh phạt họ một cách vũ phu như con vật; không tôn trọng những cá tính, khả năng và ước muốn chính đáng của họ; lo lắng quá đến cho rằng con cái đang lớn của ḿnh không biết tự trọng, cứ phải kè kè canh chừng chúng, cái ǵ cũng cấm đoán chúng; vợ chồng căi nhau trước mặt con cái, thậm chí đi đến chỗ ly dị bất kể đến ích lợi giáo dục của con cái cũng là những hành động phạm đến nhân phẩm của chúng.

 

 

Nhân Vị Làm Người

 

Nếu nói đến nhân phẩm là nói đến một yếu tố bẩm sinh, phổ quát và bất biến của con người, th́ nói đến nhân vị là nói đến một yếu tố tuy cũng bẩm sinh, nhưng cá biệt và chủ quan nơi con người, một yếu tố làm cho con người nói chung không phải là một khối giống nhau, như nơi các loài sinh vật khác, loài thảo mộc cỏ cây hay loài động vật cầm thú, những loài có thể tạo sinh sao bản phi tính dục - cloning, mà là một yếu tố bất khả thiếu làm nên bản chất của xă hội loài người văn minh, một xă hội mà con người sinh sôi nẩy nở tràn lan mặt đất bởi tác động ư thức và yêu thương của mẹ cha, một xă hội do đó cần phải sinh động và hiệp thông bởi các phần tử có tự do của ḿnh, thành phần vào đời để tích cực và chủ động góp phần xây dựng xă hội đồng loại, bằng tất cả khả năng cá nhân trời ban, theo trách nhiệm của ḿnh cần phải đóng góp cho công ích.

 

Như thế, nói đến nhân vị là nói đến cá nhân, nói đến chủ thể, nói đến tự do, nói đến quyền lợi, nói đến trách nhiệm, nói đến yêu thương, nói đến hiệp thông. Có thể nói rằng, nếu không có yếu tố nhân vị không thể nào có được một xă hội loài người, hay dù cho có đi nữa, xă hội loài người nào làm mất đi yếu tố nhân vị là cốt lơi cho bản chất của ḿnh này cũng không thể tồn tại, điển h́nh là chế độ cộng sản phi nhân.

 

Thật vậy, nói đến nhân vị là nói đến cái tôi theo nguyên tắc cũng như nói đến quyền sở hữu của tôi về phương diện thực tế.

 

Trước hết, nói đến nhân vị, về nguyên tắc, là nói đến cái tôi, một cái tôi chuyên biệt, một cái tôi độc nhất vô nhị trên đời, hoàn toàn không giống với bất cứ một cái tôi nào khác, một con người nào khác, từ khi có loài người hiện hữu trên mặt đất này cho tới năm cùng tháng tận của lịch sử trần gian. Bởi v́, nơi mỗi cái tôi, được xuất hiện và h́nh thành một cách có vẻ ngẫu nhiên, tức bởi một noăn sào độc nhất của người mẹ rơi rụng vào một lúc nào đó nơi tử cung của bà kết hợp với một tế bào tinh trùng duy nhất trong bao nhiêu triệu tế bào tinh trùng khác của người cha qua tác động sinh dục chất ngất ái ân của hai người, đều có một dung mạo tuyệt đối không giống ai, kể cả nơi những cái tôi được sinh đôi, sinh ba, đều có một chỉ tay hoàn toàn khác biệt, và đều có một giọng nói khiến cho những ai thân quen nhận ra họ liền chứ không phải ai khác v.v.

 

Chưa hết, nơi mỗi một cái tôi ấy, c̣n chất chứa những tâm tính thật là chuyên biệt, được gọi là cá tính, được bộc lộ qua những hành vi, cử chỉ và phản ứng hoàn toàn đặc thù, v́ cái tôi ấy có những ư nghĩ, cảm nhận, phán đoán, ư thích và ước muốn hoàn toàn không giống ai, những ǵ làm nên con người tôi, con người anh, con người chị, con người em v.v.

 

Phải công nhận là nhân vị nếu được hiện thân rơ ràng nhất nơi dung diện của cái tôi th́ nhân vị này c̣n được thể hiện sống động nhất nơi chủ trương của cái tôi cũng như nơi những chọn lựa của cái tôi.

 

Thật vậy, có lần tôi đă cảm nhận được một niềm vui không ít, khi thấy một thân chủ chậm phát triển trầm trọng của tôi, hầu như không biết đến những biến chuyển chung quanh, lần đầu tiên tỏ ra cái tôi của ḿnh, với những cử chỉ tỏ ra tự ái, phản kháng lại những ǵ không hợp với ḿnh.

 

Trong một buổi học hỏi vào mùa hè năm 2001 do tôi hướng dẫn, có một thanh niên giơ tay phát biểu là tại v́ con người có tên gọi mà con người mới đi đến chỗ đánh nhau. Theo lập luận của con người trẻ này, nếu đừng mang danh Hồi Giáo, Kitô Giáo, Phật Giáo v.v. th́ đâu có chuyện Hồi Giáo kỳ thị Kitô Giáo… Sau khi cho em biết là v́ vật nào cũng cần phải có căn tính của ḿnh, một tính chất cốt lơi làm nên vật đó khác với tất cả mọi vật khác, một căn tính được biểu lộ và diễn tả nơi tên gọi của vật ấy, tôi c̣n cho em biết thêm về tầm quan trọng của trách nhiệm nơi loài có tâm linh như con người. Ở chỗ, nếu xóa bỏ mọi tên tuổi đi th́ lầm lỗi do một cái tôi chủ thể vô danh nào đó gây nên cả khối xă hội vô danh sẽ phải chịu trách nhiệm hay sao?

 

Nếu nhân vị, về chân dung, được hiện thân nơi cái tôi, th́ về hoạt động, được thể hiện nơi quyền sở hữu của cái tôi. Bởi v́, nếu cái tôi là một cá thể chuyên biệt th́ cái tôi này phải có những ǵ riêng tư, những ǵ cái tôi có thể nói và được quyền nói là “của tôi”, của riêng tôi, dù h́nh dạng và cấu tạo của những vật sở hữu nơi cái tôi này cũng chẳng khác ǵ của những cái tôi khác, như thân xác (cũng có đầu, ḿnh và tứ chi như ai) của tôi, hay như cái đầu (cũng có tóc, mắt, tai, mũi, miệng như ai) của tôi v.v.

 

Có thể nói, nhân vị là cái tôi như ai không giống ai. Tuy nhiên, những cái sở hữu như ai ấy là của cái tôi này, chứ không phải của cái tôi kia, những cái sở hữu được bẩm sinh gắn liền với mỗi nhân vị ấy cần phải được cái tôi có chủ quyền coi sóc, bảo tŕ và phát triển.

 

Thế nhưng, chủ quyền của cái tôi này không phải là một chủ quyền tuyệt đối trên những ǵ cái tôi sở hữu, mà chỉ là một chủ quyền tương đối, một chủ quyền của cái tôi đóng vai quản lư cho vị chủ nhân ông tối cao là Tạo Hóa Chí Tôn, Đấng đă an bài sắp định như thế cho mỗi cái tôi cũng như cho chung xă hội loài người, những dự án và đường lối thần linh mà con người cần phải nhận thức, tuân theo và chu toàn.

Đó là lư do con người không được quyền tự sát nếu không có lư do chính đáng, như tự sát v́ công ích, tự sát cho tha nhân. Đó cũng là lư do con người nhận lănh để cho đi. Và đó cũng là lư do con người chỉ đạt đến và càng đạt đến tầm vóc làm người đích thực và toàn hảo của ḿnh, khi không sống cho ḿnh nữa mà là sống cho đời, trở nên một con người quốc tế, con người đại đồng, con người của mọi người và cho mọi người.

 

Tóm lại, nếu nhân vị được hiện thân nơi cái tôi, th́ nhân vị được toàn hảo nơi t́nh yêu của cái tôi, một t́nh yêu chẳng những thăng hoa nhân phẩm con người nói chung mà c̣n viên măn chính nhân vị nói riêng, nhất là lúc t́nh yêu nơi cái tôi nạn nhân bị xúc phạm này biết xót thương tha thứ. Những nhà giáo dục cần phải để ư đến yếu tố nhân vị nơi con người thụ huấn, bằng không, giáo dục sẽ bị phản chứng. Ở chỗ, thay v́ uốn nắn con người thụ huấn trở thành cái tôi đích thực của họ, th́ giáo huấn viên lại lấy những chủ trương và ư thích của ḿnh mà cloning nhân vị thụ huấn ấy trở thành y hệt cái tôi của ḿnh.

 

 

Nhân Cách Làm Người

 

Nhân cách đây, như đă xác định ngay từ đầu, không phải là cách sống của con người cho bằng tư cách làm người của họ. Thật vậy, v́ mỗi người là một cá thể, có nhân vị riêng, với những cảm nhận khác nhau, có thể tỏ ra những tác hành, ngôn từ và phản ứng khác nhau, dù trải qua cùng một trường hợp, ở vào cùng một hoàn cảnh, nghe cùng một bài giảng, học cùng một trường, con cùng một cha mẹ v.v.

 

Thế nhưng, nói ǵ th́ nói, làm ǵ th́ làm, phản ứng ra sao th́ phản ứng, đă là người, ai cũng phải tỏ ra ngôn hành của ḿnh một cách có nhân cách, tức xứng với phẩm giá cao quí, phổ quát và bất biến nơi thân phận làm người của ḿnh.

 

Vậy, căn cứ vào đâu để biết được con người đă hành sử hợp với nhân cách hay là một con người có nhân cách. Nói khác đi, để tỏ ra ḿnh là người, chứ không phải thú vật, hay không phải bị chậm trí khôn hoặc mất tính người, con người phải sống động ra sao, phải có những hành vi cử chỉ ngôn từ phản ứng như thế nào họ mới thực sự sống xứng đáng với nhân phẩm làm người cao quí của ḿnh, nếu không phải là làm lành lánh dữ, như nguyên tắc chung của chính lương tâm con người cũng là của những ǵ tất cả mọi đạo giáo trên đời truyền dạy con người sống.

 

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, con người làm sao biết được đâu là lành là dữ, và thế nào là lành là dữ để mà làm lành lánh dữ? Thực tế cho thấy, chính các đạo giáo cũng có những điều hơi mâu thuẫn với nhau về nguyên tắc chung này khi đi vào phần thực hành. Chẳng hạn, Ấn giáo tôn kính loài ḅ, và Phật giáo cấm sát sinh, trong khi Do Thái giáo lại đi sát tế loài vật, như giết chiên ḅ để tế lễ Giavê Thiên Chúa của họ. Tuy nhiên, có hai chân lư mà không một con người c̣n lương tâm chân chính có thể phủ nhận được.

Chân lư thứ nhất, đó là con người là một tạo vật được dựng nên mới có, chứ không phải là Tạo Hóa, là Đấng Tối Cao, Đấng Tự Hữu và Toàn Hữu, nên không ai toàn hảo, toàn năng, và toàn quyền, ở chỗ có thể tự quyết định mọi sự theo chủ quan của ḿnh. Bởi thế, hệ luận của chân lư thứ nhất này là, về nhân phẩm, con người tạo vật chỉ là một viên quản lư trên tất cả những ǵ được trời ban cho riêng cái tôi nhân vị của họ để làm vốn sống cho họ, và họ phải làm sao để cái vốn liếng nhân vị này của họ sinh lợi cho công ích của chung xă hội loài người. Như thế, theo chân lư và hệ luận thứ nhất này, nhân cách của con người trước hết là ở chỗ thi hành đúng với phận vụ quản lư của ḿnh đối với trời. Do đó, hễ bao giờ con người trọng cái tôi hơn công ích là họ đă trở thành lộng hành, như trong việc chán đời tự tử hay trong việc hưởng lạc phá thai, tức họ đă trở thành một con người thiếu tư cách, mất nhân cách, hay không sống đúng với nhân cánh làm người.

 

Chân lư thứ hai, con người được phát xuất từ xă hội, tồn tại với xă hội và phát triển nhờ xă hội. Bởi thế, hệ luận của chân lư thứ hai này là con người phải hiệp thông với xă hội, không bao giờ được tách rời xă hội bằng thái độ vị kỷ, hay lấn át xă hội bằng hành động tham lam. Luật vàng cho tất cả mọi con người sống chung trong xă hội có thể chẳng những tránh được tất cả mọi va chạm hay đụng độ quyền lợi của nhau, mà c̣n tỏ ra hết sức quí mến nhân phẩm và tôn trọng nhân vị của nhau, đó là, về phương diện tiêu cực, theo Khổng Giáo, đừng làm ǵ cho người khác những ǵ ḿnh không muốn họ làm cho ḿnh, hay, về tích cực, theo Kitô Giáo, hăy làm cho tha nhân những ǵ ḿnh muốn tha nhân làm cho ḿnh. Tóm lại, yêu người như bản thân ḿnh, “ái nhân như kỷ”, chính là căn bản của nhân cách làm người vậy, hay nói ngược lại, nhân cách đích thực của con người là ở chỗ yêu tha nhân như chính ḿnh vậy.

 

Phải, công việc chính yếu của các nhà giáo dục là ở chỗ uốn nắn nhân cách của con người thụ huấn. Chính nhân cách của con người thụ huấn, chứ không phải nhân phẩm và nhân vị của họ, mới là những ǵ các nhà giáo dục được phép đụng tới. Thế nhưng, họ phải uốn nắn nhân cách của con người thụ huấn một cách xứng với nhân phẩm và hợp với nhân vị của con người thụ huấn, v́ chính bản thân của những nhà giáo dục không phải là chủ tể của con người thụ huấn mà chỉ là thành phần giám hộ cho con người thụ huấn thôi. Như thế, chính khi thực hiện sứ mệnh và công việc giáo dục của ḿnh đối với con người thụ huấn là con người giáo huấn được nên trọn hảo hơn, một khi họ biết nỗ lực hoàn tất vai tṛ quản lư viên của ḿnh, tức vai tṛ giám hộ viên của họ trong việc trông coi một sản vật vô cùng cao qúi là chính những con người thụ huấn được trao cho họ với tư cách là cha mẹ hay thày cô để họ vun trồng và tưới bón cho đến khi con người thụ huấn thực sự đạt đến tầm vóc nhân vị làm người sống cho đời.