2.- T́nh Yêu Phái Tính
T́nh Yêu Phái Tính: Nhân Duyên Cuộc Đời
N
ếu hôn nhân hiệp thông xă hội th́ phái tính chính là yếu tố xă hội bẩm sinh nơi con người. Thế nhưng, phái tính chính là yếu tố xă hội bẩm sinh nơi con người ấy không phải giống như phái tính đực cái nơi xă hội loài vật, loài t́m đến nhau hoàn toàn theo bản năng và chu kỳ tự nhiên. Ở chỗ, khi con cái đến thời kỳ của nó, và con đực một khi ngửi thấy mùi của con cái, liền tự động t́m đến với con cái, để cùng với con cái làm việc truyền giống và bảo tồn giống loài của chúng một cách vô thức.
Việc con đực t́m đến với con cái nơi xă hội loài vật cũng phản ảnh xu hướng tự nhiên nơi xă hội loài người, qua việc phái nam vốn có khuynh hướng t́m đến với phái nữ, một cử chỉ hay hành động được xă hội loài người gọi là “cua gái”, “tán gái”. C̣n việc con cái nơi xă hội loài vật để cho con đực “chồng” lên thân ḿnh khi tới thời kỳ của ḿnh, cũng phản ảnh xu hướng phái đẹp thích được phái nam theo đuổi và cảm thấy hănh diện v́ ḿnh có giá nên được nhiều kẻ để ư, thậm chí có những lúc phái yếu của họ đă “sa ngă” vào ṿng tay khéo vuốt ve của phái nam, đến độ chẳng những tự động hiến thân cho việc chiếm đoạt của phái mạnh, mà c̣n cảm thấy những ǵ vẫn được ngôn từ t́nh ái gọi là “thoải mái”.
Tuy nhiên, giữa việc t́m đến với nhau nơi loài vật và loài người hoàn toàn khác nhau. Trong khi loài vật t́m đến với nhau chỉ theo bản năng của con đực và chu kỳ của con cái, th́ loài người t́m đến với nhau theo hấp lực của t́nh ái.
Vẫn biết, thực tế cho thấy, có những trường hợp con người phái mạnh t́m đến với con người phái yếu hoàn toàn theo bản năng chiếm đoạt về t́nh dục của ḿnh, được gọi là “hiếp dâm”, hay phái đẹp theo hấp lực xác thịt của ḿnh, cũng có những cử chỉ hay hành động nhục dục được gọi là “khiêu dâm” hay “măi dâm”. Tuy nhiên, b́nh thường ra, theo tự nhiên, con người, cả phái nam lẫn phái nữ, thực sự t́m đến với nhau theo khuynh hướng phái tính hay hấp lực t́nh ái. Ở chỗ, v́ t́nh ái liên quan đến tự do hơn là bản năng, do đó, trong khi t́m đến với nhau theo khuynh hướng phái tính, con người nam nữ cũng t́m đến với nhau theo cái “duyên” của ḿnh nữa. Nghĩa là, họ chỉ yêu thương nhau và hiến thân cho nhau, trước hôn nhân hay trong hôn nhân, khi hợp với nhau mà thôi, khi cảm thấy “perfect match”, hoàn toàn “xứng đôi vừa lứa”, chứ không phải gặp ai cũng nhào tới, như con đực t́m đến với con cái khi tới thời kỳ của con cái, hay không phải gặp ai cũng hiến thân, như con cái khi tới kỳ của ḿnh th́ để cho con đực chiếm đoạt.
Đó là lư do, khi không hợp với nhau nữa về phương diện tâm lư, hai con người nam nữ liên hệ với nhau về t́nh dục, ngoài hôn nhân hay trong hôn nhân, họ sẽ đi đến chỗ bỏ nhau, không t́m đến với nhau theo nhục dục nữa, nếu chưa chính thức lấy nhau, hay không sống với nhau theo xác thịt nữa, nếu đă thành vợ chồng. Đó cũng là lư do, ngôn ngữ loài người dùng chữ “giao cấu” cho loài vật, c̣n chữ “giao hợp” cho con người, một tác động liên hệ xác thịt của loài người, kể cả ngoài hôn nhân, tức một tác động sinh lư nhân bản, một tác động, theo tư thế tự nhiên nhất, được thực hiện bởi hai thân xác đối diện với nhau, áp vào nhau, chứ không ấp lên nhau như nơi loài vật.
T́nh Yêu Phái Tính: Trưởng Thành Con Người
Tuy nhiên, dù con người có t́m đến với nhau và nên một xác thịt với nhau theo khuynh hướng phái tính hay hấp lực t́nh ái như thế, chứ không phải thuần bản năng như nơi loài vật, nguyên nhân chính yếu của khuynh hướng phái tính và hấp lực t́nh ái này cũng không phải hoàn toàn thuần thể lư, như phái nam t́m đến phái nữ chỉ v́ nhan sắc hay duyên dáng hấp dẫn nơi phái nữ, hoặc thuần sinh lư, như phái nữ chấp nhận phái nam chỉ v́ tầm vóc hay sức lực dồi dào nơi phái nam. Thế nhưng, cũng nhờ chính những yếu tố ngoại tại thần tượng này, những yếu tố thuần phái tính đầy hấp lực t́nh ái này, con người nam nữ mới có thể nhận ra hay t́m được chính bản thân ḿnh, một bản thân mà, một khi gặp được rồi, họ cảm thấy không thể nào bỏ được nữa, không c̣n một cá nhân nào có thể thay thế “ư trung nhân” đó của họ nữa, thậm chí họ không thể nào sống mà không có đối tượng lư tưởng duy nhất này, và từ đó họ đă quyết định tiến tới hôn nhân, nên một thân thể với nhau, coi nhau và gọi nhau là “ḿnh”, là bản thân ḿnh của nhau.
Thật vậy, trong tiến tŕnh phát triển tâm lư nơi con người, chính lúc con người ở vào lức tuổi dậy th́, lứa tuổi vừa phát triển về cả thể lư lẫn tâm lư, lứa tuổi con người đang t́m kiếm bản thân ḿnh, đang muốn biết ḿnh là ai và như thế nào, th́ cũng lại là chính lúc con người bắt đầu biết yêu, bắt đầu hướng ngoại, cho đến khi thấy được đối tượng yêu, t́m được ư trung nhân, gặp được người t́nh lư tưởng. Như thế, người tính lư tưởng của họ bấy giờ, ư trung nhân có một không hai của họ khi ấy, đối tượng yêu vô cùng khả ái của họ này, vào chính lúc thời gian họ đang t́m kiếm, khám phá và nhận thức bản thân ḿnh như thế, không phải là chính bản thân khác của họ, một bản thân khác được ngôn từ loài người gọi là “tha nhân” hay sao? Chính t́nh yêu phái tính, và chỉ có t́nh yêu phái tính, mới có khả năng làm cho tha nhân trở thành bản thân, cho dù tha nhân ấy có khác mầu da ngôn ngữ, quốc gia chủng tộc, tôn giáo văn hóa, tŕnh độ kiến thức, giai cấp xă hội v.v., qua một cơ cấu được gọi là hôn nhân, một cơ cấu hôn nhân hiệp thông xă hội.
Như thế, có thể nói, khi bắt đầu biết yêu là con người bắt đầu trưởng thành về phương diện tâm lư. V́ ngay lúc con người cảm thấy con tim khởi sự rung động trước một đối tượng yêu là con người bắt đầu khám phá ra bản thân ḿnh. Ở chỗ, họ đă chẳng những biết ḿnh là ai và như thế nào, mà c̣n, từ đó, thực hiện quyền tự do chọn lựa đối tượng yêu của ḿnh nữa. Họ không yêu những đối tượng đầu đời hay trong đời họ gặp không hợp với họ. Một khi “phải ḷng” một đối tượng nào, ḷng họ tự nhiên được lấp đầy khoảng trống cô đơn, thiếu hụt, đến nỗi, ḷng họ không c̣n chỗ cho một đối tượng nào khác nữa, cũng như không một đối tượng nào có thể lọt vào ḷng họ được nữa.
Thế rồi, nếu t́nh yêu của họ được đáp ứng bởi đối tượng yêu, nghĩa là con người chẳng những biết yêu mà c̣n được yêu, th́ họ lại càng cảm nghiệm được bản thân của họ hơn nữa. Họ cảm thấy ḿnh có giá, ở chỗ, chẳng những chính họ nhận ra họ nơi đối tượng yêu, mà c̣n được chính đối tượng họ yêu nhận biết họ nữa. Cái giá của họ ở đây không phải là cái giá họ được ưu ái hơn người, tức được đối tượng yêu của họ chọn họ làm ư trung nhân duy nhất trên đời này, hơn tất cả mọi người khác, nhất là những người khác ấy lại là những người hội đủ điều kiện hơn họ, ngon hơn họ về bề thế gia đ́nh, về công danh sự nghiệp, về tài năng duyên sắc v.v. Cái giá của con người khi bắt đầu biết yêu và được yêu ở đây đó là và chính là kiến thức về bản thân họ, là sự thật về con người họ: họ là ai và như thế nào!
T́nh Yêu Phái Tính: Sự Thật Nhân Sinh
Thật vậy, sự thật về con người chủ thể yêu, được thể hiện sống động qua việc họ biết yêu, nhất là qua trường hợp họ được yêu, là giá trị cao quí nhất của mỗi một cá nhân con người, cũng như nơi mỗi một con người cá nhân. Như thế, có thể nói, yêu thương chính là tiến tŕnh đi t́m ḿnh, đi t́m khám phá ra sự thật về ḿnh, một sự thật chất chứa tính cách hiệp thông xă hội và hướng về thực tại hiệp thông xă hội, một tính cách hiệp thông và một thực tại hiệp thông xă hội được hoàn toàn thể hiện qua đời sống hôn nhân gia đ́nh. Một khi đánh mất sự thật này, tức một khi con người trực tiếp đánh mất bản thân ḿnh, từ đó gián tiếp đánh mất xă hội tính hiệp thông nơi ḿnh, con người sẽ trở thành hoang dại, buông thả, sẽ đi đến chỗ đổ vỡ và tan nát một cách hết sức thê thảm, như hiện tượng ly dị và phá thai, hiện tượng đồng tính luyến ái và đồng tính hôn nhân của con người văn minh về vật chất và nhân bản từ hậu bán thế kỷ 20 đến nay đă và đang tỏ tường cho thấy.
V́ sự thật về con người ở ngay chính phái tính con người và được diễn đạt hay thể hiện nơi cơ cấu hôn nhân mà sự thật này trước hết và trên hết liên quan đến sự sống. Bởi v́, phái tính không phải chỉ liên quan đến yếu tố tâm lư là hấp lực t́nh ái mà c̣n trực tiếp liên quan đến yếu tố thể lư là xác thịt nữa. Chính xác thịt mới cho thấy phái tính con người. Và chính xác thịt là phương tiện và là cơ sở để t́nh yêu phái tính bộc lộ, nhất là qua việc giao hợp giữa hai con người nam nữ yêu thương nhau trong cuộc sống hôn nhân vợ chồng, một tác động phát sinh sự sống. Đó là lư do hai thân xác nam nữ đă được Tạo Hóa cấu trúc khác nhau, để có thể giao hợp với nhau, một trong những tác động thiết yếu nhất để bày tỏ t́nh yêu phái tính. Bằng t́nh yêu phái tính này nơi con người, một t́nh yêu phái tính được thể hiện nơi đời sống vợ chồng làm phát sinh sự sống ấy, con người hoàn trọn những ǵ Tạo Hóa mong muốn và ấn định nơi thân xác phái tính của họ, nhất là nơi thân xác của người nữ. Chính v́ thế, những bộ phận liên quan đến vấn đề sinh dục nơi người nữ đều có hai công dụng, nhận lănh trước (từ chồng) ban phát sau (sinh con), hay thụ hưởng trước (bởi chồng) phục vụ sau (nuôi con). Bởi thân xác phái tính của con người đă được bẩm sinh cấu trúc với công dụng lưỡng diện như vậy mà nếu con người làm sai lệch đi định luật thiên nhiên này, họ sẽ không thể nào đạt được hạnh phúc, một hạnh phúc chân thật, cao cả và bền vững.
Không phải hay sao, nếu thân xác của con người chỉ biết nhận lănh và thụ hưởng mà không biết ban phát và phục vụ, th́ thân xác của họ chẳng khác ǵ như một con tem sống không bao giờ muốn bị đóng chấm để trở thành một con tem vĩnh viễn chết. Thế nhưng, tiếc thay, con tem sống ấy thực tế lại là một con tem chết, một con tem hoàn toàn vô dụng, không bao giờ được xài đúng như mục đích sống của nó. Hay thân xác của họ cũng giống như một chi phiếu có ghi số tiền đàng hoàng, theo đúng giá trị của nó, và được Đấng Hóa Công là chủ nhân ông tạo dựng nên thân xác của họ kư sẵn sàng và đề đích danh trả cho người được thừa hưởng. Thế nhưng, người mang thân xác ấy, với tư cách là quản lư viên, lại không bao giờ trao cho hay gửi cho người được thừa hưởng là thành phần con cái, để thân xác của họ vĩnh viễn trở thành một chi phiếu vô dụng, vô giá trị, dù nó có trẻ đẹp và hấp dẫn mấy đi nữa, song cùng lắm cũng chỉ có một giá trị thấp hèn ngang hàng với t́nh dục.
T́nh Yêu Phái Tính: Sự Sống Phát Sinh
Ngược lại, nếu thân xác của con người chỉ được dùng, đúng hơn, bị dùng vào việc ban phát và phục vụ, như trường hợp bị hiếp dâm hay ép duyên, thậm chí cả trường hợp tà dâm hay ngoại t́nh, th́ con người nói chung và thân xác của họ nói riêng chẳng khác ǵ như một thứ đồ vật, bất xứng với phẩm giá làm người của họ, phản lại với sự thật về con người theo đúng ư định của Đấng Hóa Công, Vị đă tạo dựng nên con người có nam có nữ để trước hết yêu thương nhau bằng một t́nh yêu phái tính, rồi từ đó, từ t́nh yêu phái tính trong hôn nhân này mới phát sinh sự sống, mới phát sinh ra những con người “linh ư vạn vật”. Tuy nhiên, không phải bất cứ con người nào được sinh ra bởi những cuộc hôn nhân bị ép duyên hay bị hiếp dâm hoặc ngoại hôn đều là những con người đáng khinh bỉ, không đáng làm người, hay chỉ là hiện thân nhục nhă của người mẹ, mà người mẹ có quyền sát hại nó trong ḷng ḿnh. Nếu người mẹ không tự ḿnh mà có, th́ con cái cũng vậy. Đứa con phát sinh từ những trường hợp ngoài ư muốn của người mẹ như thế càng chứng tỏ nó bởi trời hơn bởi đời, nên càng phải giữ lấy sự sống vô tội hết sức đáng thương này. Sát hại nó không phải là trả thù đời mà là chống lại nguồn mạch sự sống là Đấng Hóa Công.
Nếu sự sống là mục đích của và cho t́nh yêu phái tính, th́ t́nh yêu phái tính phải hướng về và phát sinh sự sống. Nếu t́nh yêu phái tính, được hợp thức hóa bởi hôn nhân, chỉ v́ chủ ư của vợ chồng, không dẫn đến sự sống, th́ con người đă đánh mất sự thật về ḿnh, đă sống ngược lại với bản chất của phái tính vốn hướng về sự sống. Nếu t́nh yêu phái tính liên quan đến sự thật về con người, mà sự thật này lại liên quan đến sự sống của con người như thế, th́ những hành động phái tính nào không phát sinh sự sống đều là những hành động bất hợp pháp, những hành động phản với lề luật tự nhiên, trái với sự thật về con người. Những hành động phái tính bất hợp pháp, phản nhiên luật và trái sự thật này có thể kể đến là việc ngừa thai hưởng lạc, việc phá hủy bào thai, việc đồng tính hôn nhân v.v. Ngoài ra, c̣n có những hành động liên quan đến phái tính, chứ không phải trực tiếp bởi phái tính hay từ phái tính, dù những hành động liên quan đến phái tính này có làm phát sinh sự sống, nhưng vẫn có thể là những ǵ nghịch với sự thật về con người. Chẳng hạn phương pháp cấy thai ống nghiệm, hay kiểu cấy thai chửa mướn, hoặc phương pháp tạo sinh phi tính dục cloning. Tại sao? Bởi v́, con người không phải là một sản phẩm của khoa học và kỹ thuật, mà là một ngôi vị, một hoa trái của t́nh yêu phái tính, của ư thức tâm linh, và v́ thế cần phải được thụ thai bởi chính tác động chất ngất ái ân giao hợp của cha mẹ.
Tóm lại, sự thật về con người liên quan đến t́nh yêu phái tính và được thể hiện nơi t́nh yêu phái tính có thể được tóm gọn như sau: 1) chính ở vào giai đoạn dậy th́, giai đoạn con người đang t́m kiếm và khám phá bản thân ḿnh lại chính là lúc con người biết yêu thương, hướng về người khác phái; 2) chính lúc con người bắt đầu biết yêu thương và được yêu thương ấy, cũng chính là lúc thân xác phái tính của họ bắt đầu có khả năng sinh dục và sinh sản, một khả năng để họ có thể diễn đạt t́nh yêu phái tính và từ đó phát sinh sự sống; 3) đó là lư do thân xác phái tính của họ, nhất là thân xác của người nữ, đă được bẩm sinh cấu trúc (built in) cho cả việc diễn đạt t́nh yêu phái tính và phát sinh sự sống này; 4) như thế, qua t́nh yêu phái tính, con người được kêu gọi để, sau khi đă khám phá ra bản thân của ḿnh qua đời sống hôn nhân nên một thân thể vợ chồng, họ sống cho đời, cho con cái. Hôn nhân hiệp thông xă hội là như thế.