20.- Con Người Thành Nhân

  

 

Là Người và Thành Người 

 

K

hi vừa được thụ thai trong ḷng mẹ, ngay từ giây phút đầu tiên, con người đă là người. Chính v́ con người đă là người ngay từ giây phút đầu tiên trong cuộc đời của họ mà không ai, kể cả cha mẹ của họ, có toàn quyền sinh sát trên họ. Bởi v́, nếu không là người trước th́ mầm thai ấy có thể là thú vật hay quái thai, chứ không bao giờ sẽ thành người, với h́nh dạng con người độc nhất vô nhị theo ngôi vị của họ và với bản tính con người có cả hồn thiêng lẫn xác thể. Tuy nhiên tiến tŕnh thành người trong ḷng mẹ đây chỉ là tiến tŕnh thành người về h́nh thể mà thôi, chứ chưa phải là vấn đề thành nhân về tinh thần, một vấn đề trực tiếp liên quan đến việc giáo dục.

 

Đó là lư do, như lịch sử cho thấy, con người đă đi từ thời hoang sơ, ăn lông ở lỗ, sống theo bản năng gần như loài thú, tiến đến chỗ văn minh cả về vật chất lẫn nhân bản, để mỗi ngày một thành nhân hơn, ở chỗ chẳng những vượt xa tầm mức thú vật hơn mà c̣n càng ngày càng đạt đến mức độ xứng hợp với nhân phẩm và nhân cách của ḿnh hơn. Kinh nghiệm cho thấy, một trong những yếu tố chứng tỏ con người văn minh đó là văn hóa của họ, một thứ văn hóa hoàn toàn phản ảnh luân thường đạo lư là những ǵ vốn được bẩm sinh nơi bản tính mỗi người. Bởi thế, hễ bao giờ con người bắt đầu phá sản cái lâu đài văn hóa truyền thống của ḿnh, tức bị khủng hoảng về luân thường đạo lư, là con người văn minh bắt đầu bị choáng váng, bị mất thăng bằng, và không sớm th́ muộn chắc chắn sẽ đi đến chỗ ngă xuống và sụp đổ một cách thảm thương, thậm chí đến chỗ tự diệt, như t́nh h́nh đang diễn tiến của thế giới văn minh vật chất song đầy băng hoại ngày nay cho thấy.

 

 

Thành Nhân theo Khổng Giáo

 

Như thế, phải khẳng định là vấn đề thành nhân không phải là vấn đề khám phá khoa học tinh vi hay phát minh kỹ thuật tân kỳ, mà là vấn đề văn hóa sự sống, là vấn đề văn minh yêu thương, là vấn đề luân thường đạo lư. Trong các đạo giáo, vẫn biết đạo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành, nhưng dầu sao mỗi đạo cũng có một điểm ǵ nổi bật, làm cho đạo ấy khác với các đạo khác. Phải công nhận là vấn đề luân thường đạo lư và giáo dục là điểm nổi bật nhất của Khổng Giáo, nếu không muốn nói là tất cả Khổng Giáo. Thật vậy, Khổng Giáo, qua Mạnh Tử (371-289 BC) với thuyết tính tốt, chẳng những chủ trương “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng đồng thời, qua Tuân Tử (298-238 BC) với thuyết tính xấu, Đổng Trọng Thư (179-104 BC) với thuyết tính chất, Chu Hi (1130-1200) với thuyết tính khí, và Vương Dương Minh (1472-1528) với thuyết thiên địa nhất thể, c̣n chủ trương giáo dục con người nên hoàn thiện nữa. Đó là lư do lịch sử Á Đông cho thấy hệ thống giáo dục thi cử và khoa bảng để tuyển người tài đức cho đất nước đă được bắt đầu từ Nho Gia Đổng Trọng Thư, một hệ thống giáo dục được kéo dài cả hai ngàn năm ở Trung Hoa, măi cho tới thời Cách Mạng Trung Hoa Dân Quốc, một hệ thống giáo dục đă được thịnh hành cả ở Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam. Và đó cũng là lư do Khổng Giáo đă nhấn mạnh đến con người thành nhân là một con người Chính Nhân Quân Tử, hay một con người Hiền Nhân Quân Tử.

 

Thế nhưng, vấn đề thành nhân của con người tuy “tính bản thiện” những cũng cần phải được giáo dục theo các vị Nho Gia của Khổng Giáo để trở thành một Chính Nhân Quân Tử hay Hiền Nhân Quân Tử đây là ở chỗ nào hay được thể hiện ra sao, nếu không phải được thể hiện trọn vẹn qua những tính đức được chính Đức Khổng dạy liên quan đến nhân cách của con người sống trong xă hội như Hiếu, Đễ, Trung, Thứ: Hiếu tức thảo hiếu với cha mẹ, Đễ tức thuận ḥa với anh chị em, Trung tức hết ḿnh với vua với nước, Thứ tức khuôn phép với tha nhân. Thật vậy, v́ Nho Giáo đi theo chiều hướng xă hội và mang nặng tính chất xă hội, do đó, con người thành nhân đối với đạo giáo này phải là một con người biết khôn ngoan đối xử cho phải đạo làm người trong tất cả mọi liên hệ xă hội cũng như nơi từng liên hệ xă hội, tiêu biểu là 4 liên hệ Phụ Tử, Huynh Đệ, Quân Thần và Bằng Hữu trên đây. Đó là chưa kể đến một liên hệ rất quan trọng khác nữa đó là liên hệ Phu Phụ, một liên hệ gắn liền với thân phận và vai tṛ của nữ giới hơn là nam giới. Nữ giới thành nhân, theo Khổng Giáo, phải là một người đàn bà biết sống theo tam ṭng: tại gia ṭng phụ, xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử. Tuy nhiên, để có thể chu toàn tất cả những mối liên hệ và từng mối liên hệ xă hội như thế, bản thân của con người thành nhân, nam cũng như nữ, cần phải hội đủ 5 phẩm tính là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín: Nhân là ḷng nhân ái biết cảm thông thương xót; Nghĩa là ḷng cảm thấy hổ thẹn biết ghét bỏ điều xấu; Lễ là ḷng tôn trọng biết kính trên nhường dưới; Trí là ḷng trí biết phân biệt phải trái đúng sai; và Tín là ḷng trung thành với những ǵ được hứa quyết.

 

 

Thành Nhân theo Kitô Giáo

 

Theo Kitô Giáo, ngay từ ban đầu con người cùng với tất cả mọi tạo sinh được Tạo Hóa dựng nên hoàn hảo và tốt lành. Tuy nhiên, trong tất cả mọi tạo vật trong vũ trụ này nói chung và loài sinh vật nói riêng, chỉ duy loài người mới có hồn thiêng và tự do, những ǵ làm cho con người trở thành giống như thần linh, như Thượng Đế Tối Cao. Thế nhưng, cũng chính v́ tự do, mà con người cần phải được thử thách. Để rồi, trong cuộc thử thách, ở chỗ, con người chỉ được làm tất cả những ǵ trong quyền hạn của ḿnh, chứ không được vượt phạm vi thụ tạo của ḿnh; những ǵ ở ngoài giới hạn của con người đều bị cấm, được tiêu biểu nơi trái cấm là những ǵ Thiên Chúa đặt định. Hễ bao giờ con người lạm dụng tự do của ḿnh để vượt biên là con người phạm tội, mà hậu quả là bị chết, một cái chết về tinh thần mà c̣n kéo theo cả cái chết về thể chất nữa. Đó là lư do đau khổ và sự chết là hậu quả của tội lỗi, mà tội đầu tiên gọi là tội Nguyên tổ, v́ tội này gây ra do hai Nguyên tổ của loài người là ông Adong và bà Evà. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ, tuy hai nguyên tổ phạm tội nhưng con cháu của nhị vị phụ mẫu tiên khởi này lại lănh đủ cái hậu quả của những ǵ các ngài đă làm sai trái ngay từ ban đầu ấy. Cái lănh đủ đó là con người từ ấy đến nay không ai có thể thoát được khổ đau và tử thần, hậu quả vô cùng tai hại và đáng tiếc của tội lỗi, của nguyên tội. Có nghĩa là sau khi hai nguyên tổ sa ngă phạm tội, bản tính con người được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa của con người đă bị hư hại, không c̣n được nguyên vẹn, hoàn hảo và tốt lành như lúc mới được Tạo Hóa dựng nên nữa.

 

Nơi chính bản thân con người, phần hạ và phần thượng bắt đầu xung khắc nhau, để rồi từ đó và bởi đó, những mối liên hệ giữa con người tạo vật với Tạo Hóa, giữa con người đồng loại với nhau, cũng như giữa con người “linh ư vạn vật” với thiên nhiên tạo vật, đă bị liên tục gián đoạn, khủng hoảng và lủng củng, điển h́nh nhất là hiện tượng và t́nh trạng chiến tranh đủ mọi h́nh thức hầu như không bao giờ có thể chấm dứt nơi lịch sử loài người qua các thế hệ. Chính vị con người mang một bản tính sa đọa không thể tự giải cứu được ḿnh khỏi đau khổ và tội lỗi mà họ mới cần phải được cứu độ, được cứu độ bởi chính Vị Tạo Hóa của ḿnh, Đấng đă nhập thể làm người như họ nơi Đức Kitô, một Con Người Lịch Sử mang danh Giêsu quê ở Nazarét, một Con Người đă tử giá bởi tay loài người trong thời Tổng Trấn Philatô thuộc đế quốc Rôma đang cai trị nước Do Thái, song đă phục sinh bởi Thần Linh toàn năng để mang lại b́nh an cho con người, một b́nh an nơi chính họ, nhờ đó, họ cũng có thể sống an b́nh với Thiên Chúa, với nhau và với thiên nhiên tạo vật, như thuở thái ḥa ban đầu của trời đất.

 

Tuy nhiên, dù chung con người đă được cứu chuộc, thậm chí nơi cả thành phần Kitô hữu đă lănh nhận Phép Rửa, tức đă được khỏi tội, nhưng mầm mống tội lỗi của họ vẫn c̣n đó. Đó là lư do chúng ta thấy xẩy ra nạn linh mục Hoa Kỳ lạm dụng t́nh dục trẻ em bùng lên vào đầu năm 2002 chẳng hạn. Theo Kitô Giáo, đời sống của người Kitô hữu là một đời sống vừa thiêng liêng vừa trần tục, thiêng liêng với ân sủng và trần tục với những đam mê nết xấu như cỏ dại lúc nào cũng muốn lấn át lúa tốt là ân sủng thần linh nơi họ. Bởi thế, để có thể giữ vững đức tin của ḿnh, họ cần phải liên lỉ đương đầu với một trận chiến thiêng liêng bằng việc cẩn thận giữ đạo, như đọc kinh, đi lễ, học giáo lư, Thánh Kinh v.v. Đấng Sáng Lập của họ không dạy họ nên người, thành nhân, như chủ trương của Đức Khổng Tử và các Nho Gia Khổng Giáo, nhưng dạy họ nên thánh, nên giống chính Cha trên trời của họ là Thiên Chúa Toàn Thiện Toàn Ái (xem Mathêu 5:48). Như thế, đối với Kitô hữu, nên thánh là thành nhân, và việc con người thành nhân nơi Kitô giáo là việc con người từ từ được thần linh hóa, được thần thánh hóa, cho đến khi họ có thể sống như Đấng Sáng Lập của họ là Vị Thiên Chúa Làm Người đă sống xưa. Đó là lư do Giáo Hội Công Giáo đă xác tín là sự thật về con người và ơn gọi của con người chỉ được sáng tỏ và nên trọn nơi Chúa Giêsu Kitô mà thôi (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Gaudium et Spes, Vui Mừng và Hy Vọng, đoạn 22).

 

 

Thành Nhân theo Luân Đức

 

Nếu chủ trương thành nhân của Khổng Giáo là ở chỗ trở thành một Chính Nhân Quân Tử trong xă hội, và chủ trương thành nhân của Kitô Giáo là ở chỗ nên thánh như Vị Thiên Chúa Làm Người là Đức Giêsu Kitô, th́ thành nhân ở đây có một tụ điểm là luân đức, tức bốn nhân đức trụ về luân lư là Khôn Ngoan, Công B́nh, Tiết Độ và Can Đảm. Bởi v́, bất cứ Thánh Nhân Kitô Giáo nào hay Chính Nhân Quân Tử Nho Gia nào cũng phải hội đủ 4 nhân đức trụ về luân lư này ở mức độ hoàn hảo, bằng không, họ không thể nào đáng gọi là Thánh Nhân hay Chính Nhân Quân Tử được cả.

 

Thật ra, một Chính Nhân Quân Tử Khổng Giáo sống 5 phẩm tính Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín cũng chẳng qua  là họ sống theo 4 luân đức này vậy: Trí liên quan đến Khôn Ngoan, Nhân và Nghĩa liên quan đến Công Bằng, Lễ liên quan đến Tiết Độ, và Tín liên quan đến Can Đảm. C̣n Thánh Nhân Kitô Giáo, thành phần được thần linh hóa bằng ba tài năng thần linh để có thể sống như thần linh; ba tài năng này được gọi là ba thần đức, tức ba nhân đức nhắm đến chính đối tượng là Thiên Chúa, đó là Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến: Đức Tin là tin tưởng vào Mạc Khải và Thẩm Quyền của Thiên Chúa, Đức Cậy là cậy trông vào Quyền Năng và T́nh Thương của Thiên Chúa, Đức Mến là mến yêu Bản Tính Toàn Thiện của Thiên Chúa. Thế nhưng, ba Thần Đức này cũng liên quan đến 4 Luân Đức Trụ: Đức Tin với Khôn Ngoan, Đức Cậy với Tiết Độ và Can Đảm, Đức Mến với Công Bằng. Như thế, một con người thành nhân b́nh thường phải là một con người sống một cách khôn ngoan, công bằng, tiết độ và can đảm.  

 

Khôn ngoan ở chỗ chẳng những biết khách quan phân biệt hay phân xử theo chân lư v.v., mà c̣n biết chọn lựa những ǵ xứng hợp với thân phận, vai tṛ và hoàn cảnh của ḿnh nữa. Một câu chuyện tiêu biểu cho nhân đức khôn ngoan này là câu chuyện về vua Solomon, vị vua thứ ba của dân Do Thái, vị vua đă phân xử hết sức khôn ngoan vụ hai người nữ mới sinh hai đứa nhỏ cùng một lúc và cùng một nơi, nhưng một đứa bị mẹ đè chết, và đứa c̣n lại được hai người giành nhau. Để thử xem đứa nhỏ thật sự là của người nào, vua Solomon đă ra lệnh chém đôi đứa nhỏ ra làm hai. Cuối cùng vua đă lệnh trao đứa nhỏ đó cho người mẹ muốn cứu đứa nhỏ, bằng cách sẵn sàng nhường đứa nhỏ cho người mẹ đồng ư với vua trong việc chặt đứa nhỏ ra làm đôi (xem Sách Chư Vương, quyển 1, đoạn 3:16-27).

 

Công bằng ở chỗ sống đúng với thân phận của ḿnh, với vai tṛ, với tài năng cũng như với chức vụ của ḿnh, không lộng hành, không lấn át hay gây thiệt hại kẻ khác v.v. Một con người thành nhân là một con người khi được người tính tiền ở quầy hàng thối lại cho ḿnh quá số tiền ḿnh phải trả cho món đồ, liền mang trả lại, chứ không thấy vậy lấy luôn; họ cũng là một con người làm lỗi th́ nhận lỗi và xin lỗi chứ không chạy tội, đổ lỗi và ngoan cố; họ c̣n là một con người nhận ơn th́ đền đáp, hứa là làm, hết sức chu toàn trách nhiệm của ḿnh; họ có thể là một con người chấp nhận những thiệt hại hay hậu quả do chính ḿnh gây ra mà không than thân trách phận kêu trời kêu đất v.v.

 

Tiết độ ở chỗ biết làm chủ ḿnh, không để cho ḿnh sống buông tuồng, sống thả lỏng theo đam mê nết xấu, tham thực cực thân, cả giận mất khôn, dục tốc bất đạt, giận cá chém thớt, bất chấp thủ đoạn v.v. Một con người thành nhân là một con người ăn uống điều độ chứ không phải hễ ngon th́ đớp mạnh dở th́ bỏ thừa, làm việc chừng mực chứ không phải hứng th́ làm chán th́ thôi, nếp sống kỷ cương chứ không phải lung tung đồ đạc thất thường giờ giấc, đoan trang từ tốn chứ không phải to mồm lắm chuyện, trầm tĩnh tự tại chứ không phải sôi nổi nông cạn...

 

Can đảm ở chỗ thắng vượt những khó khăn, không lùi bước trước thử thách, hy sinh, nhẫn nại, chịu đựng v́ thiện ích hay để đạt được lư tưởng làm người. Gương can đảm không thiếu ǵ trong lịch sử các nước trên thế giới, những gương sáng tỏ nơi các vị anh hùng dân tộc của họ. Như một Lê Lai cứu chúa khi Lê Lợi bị quân Minh vây xiết không thể thoát thân. Như một Trần B́nh Trọng không màng danh lợi vinh thân đă thẳng thắn dứt khoát “thà làm quỉ nước Nam c̣n hơn là vương đất Bắc”. Như một Helen Keller (1880-1968), ở Alaska Hoa Kỳ, từ hai tuổi đă bị mù ḷa và câm điếc, thế mà, với sự giúp đỡ của bà Anne Sullivan, Hellen đă ra trường cấp bằng cử nhân bậc danh dự năm 1904. Sau đó Hellen đă đi thuyết tŕnh 25 nước khắp năm châu. Các tác phẩm của Hellen đă được dịch sang 50 thứ tiếng, như cuốn Câu Truyện Cuộc Đời Tôi (1903), Thế Giới Tôi Sống (1908), Khúc Ca Bức Tường Đá (1910), Từ Trong Tăm Tối (1913). Như một Cha Damien (1840-1889) người Bỉ suốt đời phục vụ người cùi ở Molokai thuộc quần đảo Hạ Uy Di. Như một Maximilianô Kolbe, người tù Balan của Đức Quốc Xă số 16670, ngày 14/8/1941 đă tự nguyện chết trong Trại Auschwitz thay cho một người gia trưởng.