24.- Tăng Trưởng Tầm Vóc
1. Trứng gà có trước hay con gà có trước?
V
ấn đề “trứng gà có trước hay con gà có trước” là một vấn đề đă làm cho nhiều người buồn cười. V́ nó có vẻ trẻ con – chỉ có trẻ con mới hỏi những câu ngớ ngẩn như thế! Thế nhưng, nếu để tâm suy nghĩ, vấn đề cũng có thể làm cho một số người chỉ biết cười trừ. V́ không biết trả lời sao cho đúng. Đằng nào cũng có lư cả: gà phải có trước mới sinh ra trứng, nhưng nếu không có trứng th́ cũng chẳng có gà. Th́ ra, cái vấn đề ngớ ngẩn của trẻ con này cũng đă làm cho nhiều bộ óc người lớn bị nhức đầu. Cũng đă gây ra những cuộc tranh căi nẩy lửa giữa người lớn với nhau song họ vẫn chẳng giải quyết được ǵ. Đến nỗi họ đă phải gạt đi không suy nghĩ nữa. Bởi nó giống như bài toán phi đáp số đối với họ. Hay như một thứ bát quái trận lọt vào th́ dễ mà thoát lại rất khó.
Thế nhưng, theo tôi, chính v́ con người văn minh hầu như tuyệt đỉnh ngày nay không thể giải quyết được vấn đề trẻ con “trứng gà có trước hay con gà có trước” hết sức ngây ngô này, mà xă hội đầy tiện nghi vật chất của họ đă bị tẩu hỏa nhập ma về phương diện tâm lư và luân lư.
Thật vậy, không phải hay sao, theo trào lưu pro choice -pḥ quyền tự quyết của ḿnh, một chủ trương đă được pháp luật công nhận, và quyền phá thai đă chính thức được phép tại thế giới Âu Mỹ từ đầu thập niên 1970, th́ con người tân tiến cho rằng con gà phải có trước trứng gà. Bởi v́, theo khuynh hướng pro choice, thai nhi được sinh ra hay chăng là do quyền chọn lựa của người mẹ, bà có muốn giữ thai nhi và sinh ra thai nhi th́ thai nhi mới c̣n tồn tại và mới có thể ra chào đời, bằng không, nó chỉ là một cục thịt dư, sẽ bị trục ra khỏi bụng dạ của bà bất cứ lúc nào.
Thế nhưng, vấn đề ở đây là, khi phá thai, thai mẫu đă tỏ ra muốn chặn đứng tiến tŕnh Làm Người của thai nhi. Nghĩa là, bà đă không cho cục thịt dư trong ḷng dạ của bà đó, dù mới là một thai bào nguyên sơ, có cơ hội tăng trưởng tầm vóc cho đến khi thành h́nh một con người, như chính bà đă từ từ thành h́nh Làm Người trong ḷng mẹ của bà trước kia. Như vậy, gián tiếp và mặc nhiên, theo nguyên tắc, con người làm mẹ phá thai này cũng công nhận là trứng gà phải có trước con gà. Ở chỗ, bà sợ rằng nếu không phá đi th́ thai bào sẽ tăng trưởng tầm vóc trong ḷng dạ của bà và sẽ trở thành một con người, lại càng nặng gánh cho bà!
Đúng thế, theo khả năng truyền sinh th́ con gà phải có trước trứng gà, nhưng theo tiến tŕnh phát triển th́ trứng gà phải có trước con gà. Trước hết, theo triết học, v́ không phải là Đấng Hóa Công, Đấng Tự Hữu và Hiện Hữu, Toàn Hảo và Toàn Thiện, tất cả mọi tạo vật, nhất là sinh vật, không thể nào toàn hảo ngay lập tức. Trái lại, nó phải trải qua một tiến tŕnh phát triển, từ khởi điểm bất toàn đến đích điểm vẹn toàn. Thần học cũng xác nhận nhận định này của triết học.
Trong Sách Sáng Thế Kư, cuốn sách đầu tiên của Bộ Thánh Kinh Do Thái Giáo, tŕnh thuật về cuộc sáng tạo của Giavê Thiên Chúa cũng đă cho thấy tiến tŕnh phát triển của chung tạo vật cũng như của riêng con người theo đường lối trứng gà phải có trước con gà.
Đó là lư do, sau mỗi ngày trong sáu ngày tạo dựng, Sáng Thế Kư ghi rằng “xẩy ra một buổi tối và một buổi sáng, đó là ngày thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu.” (Gen 1:5,8,13,19,23,31).
Tại sao một ngày tạo dựng lại được bắt đầu bằng “một buổi tối” trước “một buổi sáng”, hoàn toàn khác ngược với ngày sống của chúng ta hiện nay “sáng” trước “tối” sau? Nếu không phải, trứng gà phải có trước con gà, tức là tiến tŕnh phát triển phải đi từ tối, biểu hiệu cho bất toàn, đến sáng, biểu hiệu cho vẹn toàn.
Đó là lư do, cũng theo Sách Sáng Thế Kư thuật lại, tiến tŕnh của Sáu Ngày Tạo Dựng liên quan đến sự sống cũng đi từ bất toàn đến vẹn toàn như sau: sự sống thực vật được dựng nên ở vào ngày tạo dựng thứ ba, sự sống động vật (chim trời cá nước) được dựng nên ở vào ngày tạo dựng thứ năm, và sự sống thú vật rồi đến nhân vật được dựng nên ở vào ngày tạo dựng thứ sáu (xem Gen 1:11-12, 20-21, 24-26).
Riêng con người, loài được dựng nên sau cùng, v́ là loài có sự sống cao nhất các sinh vật trên trái đất này, sự sống thể lư có trước sự sống tâm linh, và sự sống cá nhân có trước sự sống xă hội (xem Gen 2:7,21-24).
Tóm lại, theo tôi, nếu con gà là biểu hiệu cho tầm vóc th́ trứng gà là biểu hiệu cho sự sống. Sự sống phải có trước tầm vóc, có trước h́nh hài hay hữu thể của sinh vật thế nào th́ trứng gà cũng phải có trước con gà như thế.
2. Phải chăng trong sự sống đă có tầm vóc?
Nếu trứng gà có trước con gà, hay sự sống có trước tầm vóc, th́ quả thực trong sự sống đă có tầm vóc, hay tầm vóc đă được tiềm ẩn nơi sự sống rồi vậy. Chẳng hạn, sự sống nhân vật, v́ đă có sẵn những nguyên tố Làm Người, nên sẽ phát triển thành tầm vóc loài người; sự sống động vật, v́ đă có sẵn những nguyên tố làm thú, nên sẽ phát triển thành tầm vóc loài vật; và sự sống thực vật, v́ đă có sẵn những nguyên tố làm cỏ cây, nên sẽ phát triển thành tầm vóc loài thảo mộc.
Không thể nào sự sống loài thú lại phát triển thành tầm vóc loài người, như giả thuyết tiến hóa của Darwin chủ trương trong cuốn Nguồn Gốc Các Giống Loại của ông, một tác phẩm đă được xuất bản vào cuối năm 1859. Vậy lịch sử của riêng loài sinh vật, trong đó có loài người, chẳng qua chỉ là tiến tŕnh sự sống phát triển thành tầm vóc.
Nếu kể chung tất cả mọi sự trong trời đất, th́ lịch sử được bắt đầu từ khi mới h́nh thành sự sống, nghĩa là được bắt đầu trước khi có cả sự sống nữa, tức được bắt đầu từ giai đoạn thiên nhiên mới xuất hiện những yếu tố tạo nên sự sống, như đất nước và khí trời, những yếu tố được Sách Sáng Thế Kư của Do Thái Giáo cho biết thuộc về Ngày Tạo Dựng Thứ Ba, trước khi sự sống của loài thực vật xuất hiện (xem Gen 1:9-10).
Thế nhưng, nếu sự sống nào phát triển thành tầm vóc ấy, th́ nơi sự sống chẳng những có nguyên tố làm nên tầm vóc sinh vật theo giống loại của nó, như vừa nhận định và phân tích, mà nơi sự sống c̣n chất chứa cả bản chất của sinh vật chuyên biệt theo giống loại ấy nữa. Nghĩa là, sự sống chất chứa cả chính cái thực tại của sinh vật, chất chứa cả chính cái bản chất của sinh vật, chính cái Là của sinh vật nữa.
Nói dễ hiểu hơn, v́ Là Người, nên sự sống có sẵn những nguyên tố Làm Người, và mới phát triển thành tầm vóc loài người. Hay nói ngược lại và thực tế hơn, sở dĩ con người Có Bản Tính hay Có Hữu Thể, bao gồm cả xác chất và hồn thiêng để Làm Người, hoàn toàn khác với loài động vật và thực vật, chỉ v́ họ Là Người. Tức trước khi Có Hữu Thể hay Có Bản Tính chuyên biệt để Làm Người, con người đă Là Người, và chính v́ Là Người họ mới Có Hữu Thể, Có Bản Tính Làm Người.
Tiến tŕnh phát triển sự sống chính là tiến tŕnh phát triển cái Bản Chất Là này, là tiến tŕnh làm cho cái Là trở thành hiện thực, trở thành h́nh thù đích thực và trọn vẹn của sự sống. Bởi thế, nếu không Là Người th́ thai bào trong bụng thai mẫu có thể từ từ phát triển để Có Hữu Thể, với những bộ phận và h́nh thù Làm Người chuyên biệt của ḿnh được chăng? Mà nếu ngay từ giây phút đầu tiên thai bào đă Là Người, th́ không phải phá thai chính là Giết Người, chứ không phải chỉ đơn thuần là việc trục xuất một cục thịt dư ra khỏi tử cung, một bộ phận v́ Là Mẹ nên mới Có để Làm Mẹ hay sao?
Kinh nghiệm cho thấy, trong tất cả mọi loài sinh vật hữu h́nh thuộc thế giới thiên nhiên vạn vật này, sự sống loài người thực sự là sự sống cao nhất. V́ nơi sự sống loài người có một yếu tố làm cho họ vượt trên loài thực vật và động vật, đó là hồn thiêng.
Như chính sự sống, hồn thiêng cũng là một thực tại linh thiêng vô h́nh không thấy được, ngoại trừ qua các dấu hiệu hay tác động của nó, được tỏ hiện nơi thân xác của con người, như qua lời ăn tiếng nói hay hành vi cử chỉ khôn ngoan khéo léo của họ. Chính những diễn đạt khôn ngoan khéo léo, nhờ yếu tố hồn thiêng nơi sự sống con người và là yếu tố để họ Làm Người như thế, đă cho thấy con người chẳng những có tâm linh, biết ḿnh biết người, tri kỷ tri bỉ, mà c̣n có cả quyền năng tự do để chọn lựa và xoay sở biến báo nữa, chứ không phải chỉ sống theo định luật thiên nhiên như loài thực vật, hay chỉ sống theo bản năng như loài động vật.
Đúng thế, chính yếu tố tâm linh khiến con người biết ư thức và tự do hành động như thế đă làm cho họ trở thành một Ngôi Vị, một Person, chứ không phải chỉ là một khối đồng loạt, một khối đồng nhất như nơi loài thú, một khối sinh vật về chủ quan, chẳng biết ḿnh là ai, về khách quan, h́nh thù dung mạo hầu như giống hệt nhau, không có những nét đặc thù, những nét căn tính, những nét ID làm nên cá thể như nơi con người, loài sinh vật mà mỗi cá nhân đều có nét mặt, tiếng nói và chỉ tay riêng biệt, không ai giống ai, trong cả muôn vàn triệu tỉ con người vô số kể từ khi họ mới xuất hiện trên mặt đất này.
Nếu mỗi một con người là một Ngôi Vị, hoàn toàn đặc thù và chuyên nhất như thế, cả về h́nh thù lẫn tầm vóc, th́ phương pháp cloning tạo sinh phi tính dục, phương pháp tạo nên hai sinh vật giống hệt nhau, như đă xẩy ra ở trường hợp loài cừu bên Tô Cách Lan ngày 22/2/1997, th́ phương pháp này, nếu áp dụng vào loài người, chẳng những phản luân lư mà c̣n phản cả tâm lư, triết lư và thần học nữa.
Theo tôi, dù văn minh tột đỉnh và cố gắng hết sức, chắc chắn con người sẽ không thể nào và không bao giờ thực hiện được việc thử nghiệm tạo sinh con người theo phương pháp cloning phi tính dục như ḷng mong ước. Bởi v́, nơi sự sống đă có tầm vóc, nơi sự sống con người đă có một Ngôi Vị linh thiêng vô cùng cao quí vậy.
3. Phải chăng tầm vóc là sự sống phát triển?
Nếu nơi sự sống đă có sẵn tầm vóc của sinh vật và sẽ phát triển thành h́nh hài của sinh vật, th́ sự sống, như đă nhận định và xác tín trên đây, chính là bản chất của sinh vật.
Đúng thế, sự sống là một thực tại chứ không phải là hiện tượng. Bởi vậy, nếu chúng ta chỉ thấy được lá rung, chỉ thấy được bụi bay là chúng ta biết gió thế nào, th́ chúng ta cũng không thấy được chính sự sống, mà chỉ thấy được hiện tượng sự sống hay dấu hiệu của sự sống thôi.
Tuy nhiên, dấu hiệu của sự sống, hay hiện tượng của sự sống, cũng không phải chỉ là sự việc chuyển động. Bằng không, gió cũng là sự sống, và các hành tinh quay chung quang mặt trời cũng là sự sống. Mà là sự việc phát triển. Phát triển chính là dấu hiệu và là hiện tượng chứng tỏ thực tại sự sống. Hay hiện tượng phát triển chính là sự việc tỏ hiện thực tại sự sống vậy.
Bởi thế, vẫn biết tác động thở làm cho sinh vật sống, nhưng nếu không có sự sống, hay không c̣n sự sống, sinh vật cũng chẳng biết thở là ǵ, và không cũng chẳng c̣n khả năng để thở nữa, nghĩa là tắt thở, là chết.
V́ tác động thở không phải là thực tại sự sống hay làm nên sự sống, mà chỉ là dấu hiệu và là hiện tượng cho thấy sự sống hay thể hiện thực tại sự sống, nên chết đi không phải chỉ là việc tắt thở, mà là ở chỗ sự sống đă hết thời của nó. Tức là, một khi sự sống hết thời th́ sinh vật tận số, là sinh vật tắt thở, là sinh vật chết đi. “Cùng tất biến” là như thế: sự sống cùng th́ tầm vóc biến.
Tuy nhiên, v́ sự sống là một thực tại bất biến, chứ không phải là một hiện tượng đổi thay, do đó, không phải tầm vóc biến là sự sống cùng. Nếu bóng tối là hiện tượng và sẽ bị ánh sáng xua tan thế nào, sự chết cũng chỉ là một hiện tượng và sẽ bị sự sống đổi mới như vậy. Đó là ư nghĩa của xuân sang đông tàn. Xuân đến làm cho không gian tươi trẻ, thời gian mới mẻ và nhân gian vui vẻ, sau một mùa đông không gian tàn héo, thời gian tối tăm và nhân gian co quắp.
Một ngày sống của con người cũng thế, cũng có bốn mùa xuân hạ thu đông: xuân vào buổi sáng đẹp, hạ vào buổi trưa nóng, thu vào buổi chiều tàn và đông vào buổi tối đen.
Thế nhưng, nếu theo tiến tŕnh trứng gà có trước con gà, tiến tŕnh phát triển của trời đất theo Thánh Kinh Do Thái Giáo, ở chỗ “xẩy ra một buổi tối và một buổi sáng”, một tiến tŕnh từ hiện tượng biến loạn bất toàn (chaotic/ in disorder) tới thực tại thái ḥa vẹn toàn (peaceful/ in order), th́ lịch sử của sinh vật không phải chỉ là “tiến tŕnh sự sống biến thành tầm vóc”, như đă nói đến ở trên, mà c̣n là “tiến tŕnh sự sống biến đổi sự chết”, là tiến tŕnh “cải lăo hoàn đồng” nữa vậy.
Như thế, tầm vóc của sự sống không phải chỉ là hiện tượng vóc dáng của sinh vật hay nơi sinh vật, một hiện tượng vóc dáng sẽ theo định luật đào thải đổi thay, “trẻ dôi ra già cọp lại”, nếu không muốn nói là theo định luật trời đất tuần hoàn, “tre già măng mọc”. Cho dù trong tiến tŕnh tuần hoàn “tre già măng mọc” đi nữa, th́ măng cũng là tre sẽ già và tre cũng chỉ là măng chưa lớn.
Vậy th́ sự sống chỉ là tiến tŕnh tuần hoàn thôi sao, chứ không phải là tiến tŕnh phát triển cho đến khi đạt đến tầm vóc viên trọn bất biến của nó? Nếu có th́ tấm vóc viên trọn của sự sống ở đâu, là ǵ, và như thế nào?
4. Tầm vóc đích thực và thành toàn của con người như thế nào?
Có thể nói, tầm vóc viên trọn của sự sống trong thiên nhiên vạn vật này ở nơi con người, là chính tâm linh ư thức của con người, một ư thức tâm linh được tỏ ra bằng việc họ nhận biết nguồn gốc, thân phận và Ơn Gọi Làm Người của họ, cho tới khi họ đạt được Thực Tại Chân Thiện Mỹ tối thượng là cùng đích của họ.
Đó chính là lư do nơi con người mới là một hữu thể vừa hữu h́nh vừa vô h́nh, mới chất chứa tất cả mọi sự trong trời đất này, đến nỗi, chính họ đă nhận thấy ḿnh “con người là một tiểu vũ trụ”.
Không phải hay sao, nơi con người có cả các thứ khoáng chất, có sự sống thực vật cũng như có sự sống động vật? Xương thịt của họ không phải đă được làm nên bởi các thứ khoáng chất là ǵ, như chất vôi (calcium) làm nên xương và chất đạm (protein) làm nên thịt? Họ đă không có sự sống thực vật nơi sinh hoạt nội tạng hay sao, như sinh hoạt tuần hoàn, hô hấp và tiêu hóa? Họ cũng không có sự sống động vật nơi sinh hoạt tồn sinh liên hệ với ngoại cảnh hay sao, như sinh hoạt cầu thực và tự vệ?
Đó là lư do, theo Sách Sáng Thế Kư của Do Thái Giáo, Đấng Hóa Công dựng nên loài người với mục đích cho họ quyền làm chủ trái đất, cai quản mọi loài (xem Gen 1:26-28). Nghĩa là tất cả muôn loài tạo vật thuộc hạ giới này đều thuộc về quyền sở hữu của con người và nhờ con người mà được nên trọn.
Với tư cách này, con người chính là cái thang được bắc từ đất lên trời, đúng hơn là cái cầu vồng. Ở chỗ, v́ vai tṛ làm chủ của ḿnh, nếu loài người băng hoại, thiên nhiên tạo vật sẽ bị hướng hạ, ngược lại, nếu loài người hoàn thiện, thiên nhiên tạo vật cũng được hướng thượng. Đó là một sự thật đă được Thánh Kinh Tân Ước của Kitô Giáo xác nhận trong Bức Thư Gửi Kitô Hữu Rôma ở đoạn 8 câu 20-21:
“Thiên nhiên tạo vật bị bắt làm tôi cho hư hoại, không phải do tự chúng muốn thế, mà là do bởi Đấng đă bắt chúng phải chịu số phận như vậy, song không phải là vô vọng, v́ chính thế giới sẽ được giải thoát khỏi t́nh trạng làm nô lệ cho hư hoại mà được thông hưởng vào niềm tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa”.
Nếu “chết là hết”, th́ “hết” ở đây không phải chỉ là “hết” tồn tại, là “cùng tất biến”. V́ mọi sự đă hiện hữu th́ không bao giờ trở về với hư không nữa. Nên “hết” ở đây nghĩa là không c̣n biết ǵ nữa, không c̣n biết sinh hoạt theo bản tính sinh vật của ḿnh nữa.
Bởi thế, nếu “chết là hết” th́ sống là c̣n, “sống c̣n” là như thế, tức “c̣n” biết cử động, tác động, phản ứng, sinh tồn, nhất là “c̣n” biết ḿnh, như nơi loài đệ nhất sinh vật “nhân linh ư vạn vật”.
Nếu biết ḿnh là kiến thức cao nhất nơi sinh vật th́ tầm mức thành toàn của chung thiên nhiên tạo vật cũng như của riêng loài người, đó là Ư Thức Làm Người. Ở chỗ, con người đáp ứng Ơn Gọi Làm Người, sống đúng với Sự Thật Là Người hay ở trong Sự Thật Là Người của ḿnh, một Sự Thật sẽ giải thoát họ, một Sự Thật mà ở đó, họ sẽ gặp được tất cả tha nhân đồng loại của ḿnh, nhờ đó, được hiệp thông với Sự Thiện Tối Cao là Sự Thật Tuyệt Đối, là Thực Tại Thần Linh!