27.- Khôn Ngoan

 

 

Cốt Lơi Khôn Ngoan 

 

T

heo thường t́nh, nói đến khôn ngoan, trước hết, là nói đến kiến thức, nói đến một tŕnh độ thông hiểu của con người. Một con người hiểu biết, hầu như cái ǵ cũng biết, thường được gọi là con người khôn ngoan.

 

Đó là lư do khôn ngoan chẳng những cho thấy mức độ tăng trưởng của con người, về cả thể lư lẫn tâm lư, thường được gọi là khôn lớn, mà c̣n cho thấy cả mức độ lăo thành của con người nữa, thường được gọi là lăo luyện, sành đời.

 

Như thế, khôn ngoan, về thực tế, c̣n liên quan đến cả cách cư xử ở phương diện xă hội cũng như cách giải quyết ổn thỏa cho những trục trặc trong đời sống. Bởi thế, một con người thông minh trí thức, bằng cấp đầy ḿnh, danh cao chức cả, ăn mặc sang trọng, mặt mũi sáng sủa v.v., nếu không biết xử thế, không biết cách đương đầu với những đụng độ với đời, vẫn không được kể là một con người khôn ngoan, trái lại, vẫn có thể bị người đời chê cười, khinh khi, nguyền rủa, và gặp thảm bại.

 

Đó là lư do, nếu công bằng liên quan đến nguyên tắc làm người thế nào th́ khôn ngoan liên quan đến đường lối làm người như vậy.

 

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, giữa công bằng và khôn ngoan c̣n có một khoảng cách. Ở chỗ, có những trường hợp theo công bằng, tức theo nguyên tắc hay theo lư th́ đúng, nhưng theo khôn ngoan, tức về phương diện hành sử hay theo t́nh th́ không hợp, nếu không muốn nói là thất sách, nên dù lư đúng nhưng việc lại không thành.

 

Bởi vậy, con người thành toàn chẳng những là một con người chính trực, một con người sống đức công bằng, mà c̣n phải là một con người thiện hảo, một con người sống đức khôn ngoan nữa. Dầu sao, căn bản mà nói, cũng phải công nhận là bất cứ những ǵ con người làm có tính cách bất công đều là những hành động bất khôn, v́ những hành động bất khôn ấy phạm đến sự thật làm người, phạm đến nguyên tắc phổ quát làm người.

 

Nói cách khác, tất cả những ǵ con người làm bất xứng với phẩm giá của ḿnh đều là những hành động bất khôn. Như thế, khôn ngoan chẳng qua chỉ là cách thức làm người đúng với phẩm giá phổ quát đại đồng của con người. Do đó mới có câu “tri kỷ tri bỉ”: Khôn ngoan nhất là ở chỗ biết ḿnh và biết người.

 

Ngoài ra, khôn ngoan chẳng những liên quan cả đến cách thức lẫn phương tiện hành động mà c̣n, bởi đó và từ đó, liên quan cả đến thành quả của việc họ làm. Có thể nói, căn cứ vào thành quả người ta đi đến chỗ xác định được việc nào là việc làm khôn ngoan, và việc nào là việc bất khôn.

 

Và chính v́ khôn ngoan liên quan mật thiết đến thành quả của việc làm như thế mà, đến đây, khôn ngoan lại liên quan cả đến lợi lộc của con người. “Khôn sống mống chết” là thế. Đó là lư do, theo tâm lư b́nh thường, ai làm điều ǵ bất lợi cho họ đều được coi là những người ngu ngốc, những người khờ dại v.v. 

 

Vậy nếu khôn ngoan là cách thức làm người đúng với phẩm giá phổ quát đại đồng của con người, và khôn ngoan liên hệ mật thiết đến lợi lộc của con người, th́ khôn ngoan quả thực được hiện thân sống động nơi văn hóa của con người.

 

Con vật dù tinh khôn mấy đi nữa, như loài chó săn được con người sử dụng để truy lùng thủ phạm, hoặc loài khỉ được con người huấn luyện để làm xiệc v.v., th́ những tác động tinh khôn ngoại thường của loài vật này cũng không thể nào được gọi là văn hóa hay đáng gọi là văn hóa cả.

 

Về phần con người, tại sao con người ngày nay không c̣n ăn lông ở lỗ, không c̣n sống theo những tục lệ man di mọi rợ, không c̣n sống theo tục lệ đa thê nơi hôn nhân gia đ́nh, hay không c̣n tiếp tục chế độ quân chủ chuyên chế ở lănh vực chính trị xă hội, nếu không phải là v́ con người đă càng ngày càng trở nên khôn ngoan hơn.

 

Thế nhưng, ba vấn đề thực tế cần được đặt ra ở đây là:

 

Thứ nhất, phải chăng văn hóa nói chung, và văn hóa của con người văn minh ngày nay nói riêng, là tất cả kho tàng khôn ngoan ngàn đời của nhân loại? – Vậy th́ tại sao lịch sử con người văn minh hiện đại lại có một thứ văn hóa được Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là “văn hóa sự chết”!

 

Thứ hai, phải chăng tất cả những ǵ con người giải quyết mang lại lợi ích thiết thực cấp thời ngay trước mắt đều là những ǵ khôn ngoan?? – Vậy th́ tại sao lại xẩy ra t́nh trạng xung khắc kịch liệt giữa khuynh hướng pro choice - pḥ quyền tự quyết và trào lưu pro life - pḥ sự sống như ở Hoa Kỳ từ trước đến nay!

 

Và thứ ba, phải chăng thảm bại, nhục nhă, thua kém v.v. đều là hậu quả của những ǵ vốn bị người đời cho là do ngu dại, là bởi bất khôn mà ra??? – Vậy th́ tại sao trong xă hội lại có những người bỏ đi tu, những người được thế gian vừa trố mắt tiếc vừa lắc đầu chê là “đẹp trai hay xinh gái như thế mà lại bỏ đi tu, thật là uổng”, thế mà, thực tế cho thấy, trong số những con người sống kiếp đời uổng phí đó lại không phải v́ chán đời cho bằng yêu đời; họ yêu đời đến nỗi họ chẳng những dấn thân phục vụ xă hội loài người nói chung và thành phần bất hạnh nói riêng ở mọi lănh vực, nhất là lănh vực giáo dục và chăm sóc sức khỏe, mà c̣n dám hy sinh cả mạng sống ḿnh để bênh vực quyền lợi của anh chị em bị đàn áp và bóc lột của ḿnh nữa, với kết quả là, những vụ ám sát thành phần này đă và đang không ngừng và không ít xẩy ra ở Phi Châu và Nam Mỹ Châu!

 

Bởi vậy, với một lương tâm chân chính, con người thành tâm thiện chí có thể giải quyết dứt khoát ba vấn đề được đặt ra trên đây một cách hết sức rơ ràng minh bạch như thế này.

 

Nếu thực sự khôn ngoan là cách thức làm người đúng với phẩm giá phổ quát đại đồng của con người, th́ tất cả những thứ văn hóa nào, những phản ứng, những giải quyết, những tác hành nào phạm đến phẩm giá của con người, tức phản lại sự thật làm người, đều là bất khôn. Trái lại, bất cứ thứ văn hóa nào, bất cứ phản ứng, tác hành, giải quyết nào, hợp với phẩm giá của con người, hợp với sự thật làm người, th́ dù có bị thiệt hại, có vẻ ngu xuẩn trước mắt thế gian, có vẻ thất sách bất lợi cho cá nhân con người, cũng thực sự là và phải được kể là những ǵ khôn ngoan.

 

Như thế, nếu xác tín trên đây không sai th́ khôn ngoan bao gồm cả ba lănh vực: kiến thức của trí khôn, chọn lựa của ḷng muốn và đường lối của việc làm. Nếu thiếu một trong ba yếu tố này, con người không thể sống khôn ngoan và trở nên một con người khôn ngoan.

 

Thật vậy, khôn ngoan không phải chỉ ở mức độ con người thông hiểu, biết phân biệt phải trái, đúng sai về sự vật hay sự việc, cũng như ở tác động con người nhờ đó biết chọn lành bỏ dữ, chọn tốt bỏ xấu, chọn lợi bỏ hại, mà c̣n ở tại cả việc con người theo đó biết t́m được những cách thế hoặc phương tiện hay nhất, khéo nhất, hợp nhất để đạt được mục tiêu hành động, đạt được mục đích làm người, nhất là để đạt được cùng đích của cuộc đời.

 

Như những ǵ vừa nhận định và phân tích, khôn ngoan tự bản chất chính là tác động biết, nơi cả ba lănh vực trí khôn, ḷng muốn và việc làm.

 

Áp dụng nguyên tắc khôn ngoan hay tiêu chuẩn thẩm định thế nào mới thực sự là khôn ngoan trên đây vào thực tế, chúng ta liền thấy đâu là khôn ngoan, là chân thực, và đâu là bất khôn, là dại dột. Chẳng hạn những trường hợp điển h́nh thực tế sau đây, liên quan đến chính trị xă hội, đến kỹ thuật khoa học, và đến giáo dục học đường.

 

 

Chân Dung Khôn Ngoan

 

Trước hết là trường hợp khôn ngoan về phương diện chính trị xă hội.

 

Như lịch sử hiện đại cho thấy, về lănh vực kinh tế, thế giới này đang được chia ra làm ba giai cấp rơ ràng: Giai cấp thứ nhất bao gồm các quốc gia thuộc loại tân tiến, tiêu biểu nhất là Hoa Kỳ; giai cấp thứ hai bao gồm các quốc gia thuộc loại đang tiến, tiêu biểu nhất là Đại Hàn; và giai cấp thứ ba là các quốc gia thuộc loại chậm tiến, c̣n được gọi là các quốc gia thuộc đệ tam thế giới (third world countries), bao gồm các quốc gia thuộc Nam Bán Cầu, nhất là ở Phi Châu và Nam Mỹ Châu, Việt Nam hiện nay cũng được kể là một quốc gia chậm tiến tiêu biểu nhất.

 

Các quốc gia tân tiến giầu thịnh thường thực hiện những chương tŕnh được gọi là “viện trợ nhân đạo” cho các nước chậm tiến nghèo khổ. Tự bản chất và về h́nh thức th́ các chương tŕnh “viện trợ nhân đạo” này là những hành động khôn ngoan tuyệt hảo, xứng đáng nói lên văn minh nhân bản của con người, và do đó thực sự thuộc về kho tàng văn hóa cao quí của con người.

 

Tuy nhiên, nếu chương tŕnh “viện trợ nhân đạo” này lại bị các quốc gia tân tiến lạm dụng để áp đặt chính sách tân thực dân đế quốc một cách khéo léo trên các quốc gia chậm tiến, bằng việc các nước tân tiến có ư đồ muốn dùng kinh tế điều khiển guồng máy chính trị của các nước được viện trợ, muốn khai thác tài nguyên của các nước nợ nần ân nghĩa viện trợ của ḿnh, nhất là muốn biến các tiểu nhược quốc mồi ngon thành một thị trường tiêu thụ cho những thứ sản xuất thặng dư của họ, những thứ thay v́ đổ đi th́ đem viện trợ.

 

Đó là lư do, vấn đề viện trợ nhân đạo được ban thí nhiều ít c̣n tùy ở lợi lộc đủ thứ thu được của các quốc gia tân tiến. Những quốc gia chậm tiến nào không có tài nguyên để khai thác, những tài nguyên hấp dẫn như các mỏ dầu hỏa ở các quốc gia thuộc thế giới Ả Rập chẳng hạn, hay ít là không chịu trở thành thị trường tiêu thụ cho họ, không chịu để họ chi phối về chính trị, như trường hợp Việt Nam thời Đệ Nhất Cộng Ḥa chẳng hạn, liền bị cúp hay giảm viện trợ nhân đạo, hay c̣n bị cấm vận bởi những lư do chính trị nữa, như trường hợp Iraq trong hơn một thập niên từ sau Cuộc Chiến Vùng Vịnh 1990-1991.

 

Cái chết của một Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm năm 1963, trước mắt những kẻ tham quyền cố vị, cho dù có là một cái chết uổng phí, một cái chết ngu xuẩn, nhưng chí khí bất khuất của vị nguyên thủ quốc gia này không chịu ngoại bang hùng mạnh chi phối nội bộ quốc gia của ḿnh, đối với thành phần ái quốc chân chính, lại là một quyết định khôn ngoan của một lănh tụ thần tượng.

 

Quyết định tấn công xâm lược Kuwait của Tổng Thống Saddam Hussein, từ đó, đă khiến cho nhân dân của ông bị Liên Hiệp Quốc cấm vận khốn khổ về kinh tế, thật sự là một quyết định sai lầm và bất khôn, thế nhưng, v́ lỗi lầm của một cá nhân mà cả một dân tộc Iraq phải chịu trừng phạt bởi cấm vận như thế, th́ việc cấm vận này có công bằng, hợp t́nh hợp lư hay chăng, hay cũng bất khôn chẳng hơn ǵ quyết định tấn công Kuwait của Tổng Thống Saddam Hussein?

 

Hiện tượng Hoa Kỳ là một siêu cường quốc viện trợ khắp thế giới lại bị khủng bố tấn công nhất thế giới đă cho thấy những chính sách ngoại giao của họ đối với các tiểu nhược quốc được họ vung tay giúp đỡ từ trước tới nay là khôn ngoan hay bất khôn?

 

Sang đến lănh vực kỹ thuật khoa học, không ai có thể chối căi con người đang ở trong một thời đại tối văn minh tân tiến về vật chất. Ngoài những phát minh kỹ thuật tân kỳ về lănh vực truyền thông xă hội, truyền thanh, truyền h́nh và truyền liệu (intenet), một lănh vực đă biến thế giới loài người ở khắp Năm Châu Bốn Bể, ở hang cùng ngơ hẻm trên trái đất, hết sức xa xôi cách trở trước đây vào thời thám hiểm tân thế giới, trở thành một ngôi làng hoàn vũ (global village), c̣n phải kể đến những khám phá của khoa học về lănh vực truyền sinh di giống (genetics), trong đó có các thứ kỹ thuật tạo sinh ngoại nhiên vô tiền khoáng hậu, như bằng phương pháp cấy thai trong ống nghiệm, hoặc theo kiểu tạo sinh sao bản phi tính dục – cloning.

 

Vấn đề được đặt ra là khi thực hiện những kỹ thuật tạo sinh ngoại nhiên này, con người có khôn ngoan hay chăng? Đối với thành phần khoa học gia theo chủ nghĩa duy thực dụng (utilitarialism) th́ đây là những việc làm khôn ngoan, bởi v́ những kỹ thuật này, như kỹ thuật cấy thai trong ống nghiệm hay vào tử cung của một phụ nữ, là để giúp giải quyết vấn đề bất lực truyền sinh của các đôi vợ chồng, hay như kỹ thuật tạo sinh phi tính dục, là để giúp vào việc tạo sinh cải giống (eugenics).

 

Thế nhưng, theo giới hạn tự nhiên của ḿnh, không phải bất cứ những ǵ con người làm được về khả năng tự nhiên đều là những ǵ con người được làm theo quyền hạn luân lư. Chẳng hạn, con người có thể sinh con đẻ cái theo phái tính và khả năng sinh dục của ḿnh, nhưng không phải v́ thế mà con người được quyền hay được phép giao hợp với bất cứ một ai ngoài vợ hay chồng chính thức của ḿnh để có con.

 

Nếu quả thực sau này con người có thể sử dụng kỹ thuật phi tính dục tạo sinh ra con người th́ con người quả thực đă tiến đến chỗ không c̣n cần đến đời sống hôn nhân và cơ cấu gia đ́nh nữa, những yếu tố thiết yếu làm nên xă hội loài người.

 

Một khi nền tảng xă hội là hôn nhân và gia đ́nh bị hủy hoại, khiến cả xă hội loài người hoàn toàn bị sụp đổ hay hỗn loạn, th́ việc thực hiện những kỹ thuật tạo sinh ngoại nhiên là việc làm có lợi hay có hại, là việc khôn ngoan hay bất khôn.

 

Nếu thực sự là việc khôn ngoan, th́ việc tạo sinh con người chẳng những phải hợp với luật tự nhiên, tức bằng việc giao hợp giữa hai con người nam và nữ, mà c̣n phải hợp với nhân bản xă hội nữa, tức phải được thực hiện trong giới hạn hôn nhân, nghĩa là phải bởi t́nh yêu thương nhau và tự hiến ḿnh cho nhau của hai con người nam nữ vợ chồng. 

 

Về lănh vực giáo dục học đường tại Hoa Kỳ hiện nay, người Việt Nam chúng ta thấy không c̣n vấn đề “tiên học lễ hậu học văn” như ở Việt Nam ngày xưa nữa. Tại học đường Mỹ Quốc không c̣n vấn đề công dân giáo dục hay c̣n khoa đức dục nữa, mà chỉ hoàn toàn thuần túy chuyên chú vào việc truyền thụ về kiến thức khoa học mà thôi.

 

Phải chăng, v́ việc giáo dục đạo đức đă bị coi thường ngay tại học đường như thế, mà giới trẻ lại là tương lai của xă hội, xă hội Hoa Kỳ càng ngày càng có những hiện tượng lạ, nếu không muốn nói là quái gở. Chẳng hạn sự kiện dân chúng được phép đốt cờ quốc gia, (tôi đă thấy những chiếc quần cộc với h́nh cờ quốc gia làm nổi nang cả bộ mông người mặc); hay hiện tượng con cái bị mồ côi bất đắc dĩ, tức là cha mẹ c̣n sống đó nhưng con cái không được quyền sống chung với cả hai, v́ cha mẹ ly dị; hoặc sự kiện con người đồng phái tính được quyền lập gia đ́nh với nhau; kể cả hiện tượng con người lúc nào cũng bất an, chẳng những liên quan đến các thứ bảo hiểm nhà cửa, xe cộ, sức khỏe, tuổi thọ, bảo vật, mà c̣n liên quan cả đến các thứ bảo hiểm pḥng thân khác như thuốc ngừa thai, bọc cao xu v́ sợ có thai, sợ bị hội chứng liệt kháng AIDS.

 

V́ chứng liệt kháng đang lan tràn và vô cùng nguy hại đến cá nhân cũng như xă hội, ngoài ra c̣n hiện tượng giới trẻ hoang thai quá nhiều, học đường Hoa Kỳ đă có những chương tŕnh dạy về tính dục - sex education, để cả nam lẫn nữ đề pḥng khỏi bị chứng liệt kháng, và để riêng nữ có thể đề pḥng khỏi bị mang bầu.

 

Qua chương tŕnh dạy về tính dục tại học đường này, người lớn đă chỉ cho lứa tuổi học sinh dậy th́ đang rạo rực t́nh dục và dồi dào sinh lư, lại đầy ṭ ṃ và muốn thử nghiệm này, những kỹ thuật ngừa thai và phương cách làm t́nh an toàn (safe sex).

 

Vấn đề ở đây là việc dạy cho giới trẻ học sinh về những kỹ thuật làm t́nh an toàn này có phải là việc làm khôn ngoan hay chăng, hay là một việc bất khôn.

 

Căn cứ vào hậu quả của việc làm, vấn đề dạy cách làm t́nh an toàn cho giới trẻ học sinh chẳng những không làm giảm bớt hoang thai mà c̣n tăng hơn nữa, như thống kê cho thấy, th́ việc này là một việc bất khôn, việc có hại hơn có lợi, việc phá hoại hơn là xây dựng.

 

Tại sao có một cách an toàn nhất và xứng với phẩm giá con người nhất, một phương pháp tuyệt đối hiệu nghiệm, tức một phương pháp khôn ngoan nhất, tốt đẹp nhất, giúp cho con người có thể giữ ḿnh khỏi cả hoang thai lẫn chứng liệt kháng, đó là giới trẻ giữ ḿnh trinh khiết, tránh những thứ yêu cuồng sống vội, và người lớn giữ ḿnh trong sạch, vợ nào chồng ấy, con người lại không làm: không chịu làm hay không dám làm?

 

Phải chăng v́ con người văn minh ngày nay, làm được hầu như mọi sự về kỹ thuật, đang quay cuồng với chủ nghĩa hưởng thụ (consumerism), nên không thể chống trả cám dỗ, không thể làm chủ được bản thân ḿnh, một t́nh trạng liên quan đề vấn đề tiết độ sẽ được bàn đến trong bài chia sẻ lần tới…

 

Tóm lại, một hành động khôn ngoan chính là một hành động hợp với nguyên tắc luân lư phổ quát, một nguyên tắc về thực tế được bao gồm 3 yếu tố: việc tốt, ư lành và cách hợp. Thiếu một trong ba yếu tố này không hành động nào của con người hội đủ điều kiện trở thành một hành động tốt, một hành động khôn ngoan, v́ không hợp với sự thật làm người, không phản ảnh nhân phẩm làm người và bất xứng với nhân cách làm người.

 

Việc tốt ở đây phải là việc tự bản chất tốt, như việc trợ nhân đạo của các quốc gia tân tiến đối với các quốc gia chậm tiến; c̣n việc tự bản chất xấu, như việc tạo sinh hoang thai hay việc tạo sinh ngoại nhiên phi tính dục, dù có ư lành, vẫn là việc xấu.

 

Ư lành, như mục đích của hành động là để giúp cho giới trẻ khỏi hoang thai và cho người lớn khỏi chứng liệt kháng; nhưng mục đích này phải được thực hiện bằng những phương thức hay phương tiện thích hợp nữa mới được.

 

Cách hợp, như dạy cho giới trẻ học sinh biết giữ ḿnh trinh khiết hay cho người lớn biết giữ ḿnh trong sạch; chứ không phải dạy cho con người làm t́nh an toàn theo phương pháp kỹ thuật có tính cách dung túng t́nh dục, đưa đến những tác động ân ái thuần nhục dục và vô trách nhiệm, hoàn toàn phản lại bản chất của tính dục hướng về hôn nhân thủy chung và sự sống lành thánh.