Sau khi vua Gia Long mất (ngày 6
tháng 2 năm 1830) vua Minh Mạng lên nối ngôi và được
các giáo sĩ Thiên chúa giáo gọi là “vị vua tắm máu Thiên
chúa giáo”. Ở phương Tây không ít tài liệu miêu tả
Minh Mạng như một tên bạo chúa không thức thời
và dă man với người Âu châu, đặc biệt là đối
với giáo dân. Thật ra, trong thời gian đầu, Minh
Mạng chưa ra lệnh chống giáo dân mà chỉ đến
tháng 2 năm 1825, vua Minh Mạng mới ra đạo dụ
chống Thiên chúa giáo. Trong lời nói đầu của đạo
dụ này đă ghi rơ quan điểm chống đạo
Thiên chúa như sau: “quan niệm tôn giáo sai lệch của người
Âu làm tha hóa linh hồn con người. Từ lâu đă có
rất nhiều tuầu buôn đến nước ta để
buôn bán và để lại những linh mục hoạt động
chống đất nước chúng ta. Những người
linh mục này dụ dỗ dân chúng và làm hư hỏng tâm
hồn họ. Các vị linh mục đă làm thay đổi
thuần phong mỹ tục. Phải chăng đó là
những điều gây một tai biến lớn lao cho đất
nước. V́ vậy, chúng ta cần phải chống
cự lại đối với sự tấn công này để
đưa dân chúng nước ta vào con đường đúng
đắn” (G.
Taboulet. “La geste francaise…” t. E, tr 322, 324). Dưới thời vua Gia
Long, tuy đạo Thiên chúa được phát triển, các
linh mục được trọng dụng, nhưng
việc các linh mục đ̣i bỏ thờ cúng tổ tiên,
thành hoàng, văn miếu đă làm cho nhiều quan lại
căm tức, kể cả vua Gia Long. Tháng 8 năm 1826,
một nhóm quan lại trong triều đ́nh tôn sùng Khổng
giáo đă dâng sớ cho vua Minh Mạng về việc đ̣i
đẩy mạnh hành động chống Thiên chúa giáo.
Trong bản sớ này có đoạn “đó là một tôn giáo
bịa đặt và chống lại chân lư. Đó là thứ
tôn giáo dụ dỗ con người, là một thứ tà giáo
dung tục. Đó là thứ tôn giáo dùng ḷng khiếp sợ của
địa ngục và nhục h́nh để dọa dân chúng,
kẻ nhát gan và bằng những lời hứa thuộc
về những khoái lạc trên thiên đàng để
quyến dụ người khác” (cũng sách vừa dẫn,
trang 323). Những
vị quan dâng sớ này c̣n vạch ra rằng những người
theo đạo Thiên chúa có lịch riêng, chữ viết riêng,
họ khác với tất cả tôn giáo khác ở Việt Nam
ở chỗ họ không hề biết đến thờ
cúng tổ tiên, họ lập làng riêng, ṭa án riêng, không cho người
ngoài đạo ở chung. Dưới sự điều
khiển của các linh mục, những người theo đạo
Thiên chúa muốn lập ra một quốc gia riêng trong
quốc gia chung của vua Minh Mạng… Trước sự
kiện Tabert chạy sang Xiêm, các quan lại triều đ́nh
lại dâng sớ đ̣i nghiêm trị giáo dân (cuối năm
1832). Ngày 6 tháng 1 năm 1833, Minh Mạng ra lệnh cấm đạo
gay gắt hơn. Trong đạo dụ này có đoạn
viết: “… Triều đ́nh hạ lệnh cho tất cả
những ai theo đạo Thiên chúa, từ quan lại đến
cùng đinh phải thực thà bỏ đạo, nếu như
các người thừa nhận và tôn kính triều đ́nh.
Nếu ai là người thần dân của triều đ́nh
về sau này bị chỉ ra theo tín ngưỡng tà
thuyết này th́ người đó sẽ bị hành h́nh để
cho tôn giáo sai lệch này bị diệt trừ tận
gốc” (cũng
sách vừa dẫn trang 328).
(GS Mặc Đường,
Viện Khoa học xă jội TP Hồ Chí Minh,
bài Người
Việt Nam Thiên Chúa Giáo
Ở Miền Nam
Nước Ta Từ Thế Kỷ 17 Đến Thế
Kỷ 19,
sách đang
dẫn, trang 72-73, 74)
Về việc tàn sát đạo,
linh mục Trần Tam Tỉnh có viết như sau: “Nhân dân
Việt Nam vốn có tư tưởng khoan dung. Đạo
Phật từ Ấn Độ, đạo Khổng từ
Trung Quốc đă thâm nhập vào không có va chạm trong dân
chúng, bấy giờ cốt tủy của tôn giáo là ḷng thờ
kính ông bà, và thờ các vị thần linh. Duy chỉ có đạo
Thiên Chúa không thích nghi được trong bầu không khí
chung và bị xem, từ cái chủ nghĩa pháp lư phương
Tây của nó – như là một học thuyết làm băng
hoại những phong tục, cắt đứt những
mối liên hệ của gia đ́nh và phá hoại trật
tự xă hội. Người ta chỉ dung nạp nó
thế thôi. Nhưng khi người ta phát hiện ra
rằng những người phương Tây đă có
những mục tiêu ngoài tôn giáo, người ta cố
gắng ngăn chặn ảnh hưởng của nó.
Những cuộc sát hại tiếp theo đó. Nhưng chưa
phải là những vụ tàn sát theo kiểu người
Pháp bị tàn sát ở Si-ci-li-a năm 1282, hoặc như
kiểu người công giáo tàn sát người theo đạo
Tin Lành ở Pháp trong đêm 24 tháng 8 năm 1572. Người
ta chỉ thu hẹp trong việc đuổi những nhà
truyền giáo ngoại quốc và phạt những người
bản xứ v́ “sai lầm hoặc nhẹ dạ đă
bị những người chủ phương Tây
quyến rũ” (Trần
Tam Tỉnh. Eglise Catholique au Viet Nam, Des Chrétiens du
Việt Nam relisent l’histoire de leur Eglise. Foi et Development 31. tr. 1).
(GS Lê Văn Sáu,
bài Bức Tranh
Lịch Sử Và Những Người “Tử V́ Đạo”
Được Phong Thánh Hôm Nay, sách đang dẫn, trang
98-99)
Cũng có những giáo sĩ đă
t́m được sự hỗ trợ nhất thời và
hạn hẹp nào đấy, nhưng nh́n chung là họ luôn
luôn bị bài bác và phản kháng. Công bằng mà nói, họ
bị bài bác và phản kháng không phải chỉ v́ những
hoạt động ngoài mục đích tôn giáo của
họ. Việc không chấp nhận những ǵ xa lạ với
thói quen cố hữu, với nếp sống phổ
biến của cộng đồng cũng là việc thường
xẩy ra, Đông Tây đều có.
Trước khi các giáo sĩ xuất
hiện, giai cấp phong kiến nước ta đă có dư
dả hàng thế kỷ thời gian để tập
nhiễm giáo lư Khổng Mạnh. Từ lâu, Nho giáo đă là vũ
khí chính trị và tư tưởng cực kỳ lợi
hại của giai cấp phong kiến. Suy thịnh mặc
dầu, giai cấp phong kiến bao giờ cũng bám
lấy Nho giáo. Nho giáo được coi là kho trí thức, là
nền tảng của công danh, là tiêu chuẩn để xét
đoán thế sự, là cán cân của đạo lư, tóm
lại là tất cả. Nếu như lúc bấy giờ ở
phương Tây, luật pháp của nhiều nước cho
phép trừng trị rất nặng những kẻ nào dám
nhạo báng chúa, th́ ở nước ta giai đoạn phong
kiến cũng có quyền hạn riêng khi tuyên bố
bảo vệ đạo lư thánh hiền, sẽ thật là
sai lầm và bất công, khi nói rằng, về mặt động
cơ, đó là hành vi hủ lậu, bởi v́ làm sao có
thể nói, giữa Thiên chúa giáo và Nho giáo, cái nào tiến
bộ hơn cái nào. hạn chế của các tập đoàn
phong kiến thống trị nước ta lúc bấy giờ,
có chăng chỉ là sự lúng túng và nhầm lẫn trong
biện pháp đối phó mà thôi. Cũng có khi các giáo sĩ
và tín đồ Thiên chúa giáo được đối
xử như một lực lượng tôn giáo, nhưng thường
th́ họ vẫn bị coi là một lực lượng
chính trị, thậm chí là lực lượng chính trị đối
nghịch. Có người nói tôn giáo là chính trị. Nhận
xét ấy quả là quá cực đoan, nhưng xem ra,
nhận xét nói trên đối với các hoạt động
của giáo sĩ Thiên chúa giáo đến nước ta từ
giữa thế kỷ XIX trở về trước, cũng
có những mặt đúng của nó.
(Nguyễn
Khắc Thuần, Khoa lịch sử, đại học
Tổng hợp TP Hồ Chí Minh,
bài Sự
Truyền Bá Và Tiếp Nhận Thiên Chúa Giáo Ở Việt Nam,
sách đang
dẫn trang 121-122)
Công cuộc truyền giáo
tại Việt Nam được khởi đầu vào cái
thời kỳ Giáo hội Công giáo, trong chính nền thần
họ của ḿnh, mang đầy mặc cảm tự tôn của
kẻ nắm trọn chân lư và con đường dẫn đến
hạnh phúc. Ngoài công giáo chỉ là sai lầm và ma quỷ. Đối
với các thừa sai, Khổng giáo, v́ có tư tưởng
sai lạc về tạo hóa và v́ không nh́n nhận con người
có một linh hồn thiêng liêng và bất tử, đă “hướng
một cách rơ rệt về chủ nghĩa vô thần và mở
rộng cửa cho đủ mọi thói hư, tật
xấu…”. Phật giáo cũng hoàn toàn có tính cách ma quỷ v́
vị sáng lập, ngay từ buổi thiếu thời đă
phó ḿnh cho quỷ ma. Nhưng Lăo giáo c̣n tệ hơn thế
nữa v́ đă hoàn toàn làm tôi ma quỷ (coi H. Chappoulie, Aux
Origines d’une Eglise, Rome et les Missions d’Indochine au XVIIè siècle, tome
1, Paris 1943, trang 16).
Cái mặc cảm tự tôn này không thể không đưa đến
những hành động tương tợ như hành động
của một Giáo sĩ Bồ Đào Nha có tên là Bartholome
Ruiz, được ghi trong tập “Lịch sử đạo
Thiên chúa ở Việt Nam”: “Giáo sĩ này tỏ vẻ
hăng hái nên xô đổ cả tượng Phật trong
Chùa…” (Lịch sử đạo
Thiên Chúa ở Việt Nam, bài viết của Hồng Lam, chú
giải của L. Cadière, Huế, 1944, trang 103).
Thêm vào đó, chúng ta c̣n
phải kể đến sự kiện này là Kitô giáo, trong
thời kỳ được truyền sang Việt Nam
lần đầu tiên, đang được đồng
hóa với nền văn minh và văn hóa của các nước
phương Tây. Người ta c̣n nói rằng Kitô giáo chính là
động lực đă tạo nên sự phát triển của
các nước Châu Âu vào thời kỳ này. Dù sao th́ người
ta cũng nói đến một Châu Âu Kitô giáo, một
nền văn minh và văn hóa Kitô giáo khi nói đến
nền văn minh và văn hóa của các nước phương
Tây.
Và
khi các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha, người
Tây Ban Nha, người Pháp, người Hà Lan, người Ư…
tới truyền bá đạo Kitô tại những vùng đất
ngoại đạo, thường cũng được
coi là những vùng đất lạc hậu, thường đă
không phân biệt được một cách rơ ràng, đâu là
giáo huấn và giáo lư của Đức Kitô, đâu là cách
sống, cách diễn tả giáo huấn và giáo lư ấy theo
phong tục, tập quán của một địa phương.
Sự truyền giáo này, ngay cả khi được
thực hiện với tất cả thiện tâm, thiện
ư, cũng vẫn có thể mang dáng dấp của một
sự “bành trướng” về mặt văn hóa, tư tưởng,
văn minh, lối sống…
Hơn ba trăm năm sau,
không ít những người Công giáo đă có những
nhận định chua xót về thế đứng của
Giáo hội Công giáo Việt Nam, kết quả của công
cuộc truyền giáo này. Ông Lư Chánh Trung, một trí thức
Công giáo quen thuộc và tiêu biểu, trong bài “Hai bộ
mặt của Giáo hội Công giáo” đăng trong tạp
chí Đất nước, năm 1969 viết: “Phải khiêm
tốn nh́n nhận điều này là sau ba thế kỷ
nỗ lực Giảng Tin Mừng, hiện nay có được
một Giáo hội nhiệt thành sùng đạo với đức
tin vững mạnh lạ lùng. Nhưng một di sản
nặng nề đè trên vai Giáo hội này: tính cách hàm hồ
mờ ám của buổi đầu thành lập Giáo hội,
một thế kỷ công khai thỏa hiệp với kẻ
chiếm đất, một chính sách ngu dân cố ư hay vô
t́nh. Giáo hội chưa ḥa đồng với nếp
sống sinh hoạt của cộng đồng dân tộc,
tuy rằng bây giờ không thể đẩy Giáo hội ra
khỏi cộng đồng này. Giáo hội có mặt đấy
(một sự có mặt đáng sợ và gai mắt) như
một mô ghép vào thịt của dân tộc Việt…” (Đất nước, số 9,
2-1969, trang 21).
Trước đó, một trí
thức Công giáo khác, ông Nguyễn Tử Lộc, trong bài
“Vấn đề dân tộc đặt cho người Công
giáo” đăng trong một số Đất nước đặc
biệt về chủ đề Công giáo và Dân tộc, đă
nhận định: “Đạo Công giáo đă có mặt ở
Việt Nam từ thế kỷ XVI. Sự truyền đạo
Công giáo vào Việt Nam đă khiến đạo có một
tính rất ngoại quốc đối với phần c̣n
lại của dân tộc. Tính chất ngoại quốc
gồm cả h́nh thức đến nội dung, từ
lễ nghi, nghệ thuật đến lối sống, tín
ngưỡng. Đạo Công giáo có vẻ rất Tây, từ
câu kinh La-tinh đến ảnh tượng thờ, đến
kiểu kiến trúc giáo đường, đến quan
niệm con người và vũ trụ. Nó đối
lập từng điểm với các tín ngưỡng đă
có ở Việt Nam, một cách toàn diện, nói đúng
hơn, một cách bạo động” (Đất nước,
số 8, 12.1968).
Hay nhận định của một linh mục: “Giáo
hội (VN) chỉ là một giáo hội Pháp hải ngoại
nếu không thể Giáo hội Tây Ban Nha hải ngoại. V́
sao? Ngày nay, người ta không thể không nhận ra tính
cách chế tạo tại ngoại quốc của Giáo
hội Việt Nam. Không những khi nh́n thấy số lượng
quá ít oi của các giám mục Việt Nam sau ba, bốn
trăm năm giáo sử (…) mà cả khi nh́n cách nói năng,
hành văn của Giáo hội, h́nh thức của lễ
nhạc, lối suy tư thần học và triết
học… Quả thực, người tín hữu Công giáo
Việt Nam không sống trong ḷng xă hội Việt Nam” (Nhất Hạnh, Hoa san trong
biển lửa, trang 103).
Những nhận định
như trên đây về thế đứng của Giáo
hội Công giáo “trong ḷng xă hội Việt Nam”, c̣n cần
phải được bàn căi thêm và làm sáng tỏ thêm.
Mặt khác cũng c̣n cần phải t́m hiểu để
phân biệt một cách rơ ràng sự xung khắc không thể
tránh do chính bản chất của giáo huấn của Đức
Giêsu với tư tưởng và lối sống của xă
hội ở từng giai đoạn lịch sử với
những xung khắc do sự mập mờ hay lẫn
lộn trên đây gây nên. Đă hẳn, người ta cũng
vẫn c̣n có thể t́m hiểu, nghiên cứu những đóng
góp của Kitô giáo trong kho tàng văn hóa của Việt Nam.
… Người ta có thể
biện minh rằng những thủ đoạn chính
trị và nhất là sự cấu kết của một
số đông đảo các thừa sai và người công
giáo với thực dân Pháp đă được thực
hiện với ư hết sức ngay lành là để phát
triển và bảo vệ “nền văn hóa Kitô giáo” tại
một vùng đất “lạc hậu”, nhưng người
ta cũng không thể chối căi rằng những thủ đoạn
chính trị và sự cấu kết này đă góp phần
không nhỏ trong việc tạo nên cái thế đứng
không chấp nhận được của Giáo hội Công
giáo trong lịch sử Việt Nam, tạo nên những cái mà
Hội đồng Giám mục Việt Nam trong Thư chung
1980 gọi là “bóng tối” hay “tội lỗi”: “Lịch
sử luôn pha lẫn ánh sáng và bóng tối, cũng như đời
sống những người con của Chúa vẫn có
cả ân sủng và tội lỗi”.
Chỉ khi đất nước
giành lại được độc lập, cái thế đứng
này mới được chính thức tuyên bố là cần
phải được sửa chữa: “Là Hội Thánh trong
ḷng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với
vận mệnh quê hương, noi theo truyền thống Dân
tộc ḥa ḿnh vào cuộc sống hiện tại của Đất
nước (…) phải đồng hành với dân tộc
ḿnh, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với
dân tộc ḿnh, v́ Quê hương này là nơi chúng ta được
Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người,
Đất nước này là ḷng mẹ cưu mang chúng ta
trong quá tŕnh thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, Dân
tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để
phục vụ với tính cách vừa là công dân vừa là
thành phần Dân Chúa. Sự gắn bó và ḥa ḿnh này đưa
tới những nhiệm vụ cụ thể mà chúng ta có
thể tóm lại trong hai điểm chính: 1. Tích cực góp
phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ
và xây dựng Tổ quốc. 2. Xây dựng trong Hội Thánh
một nếp sống và một lối diễn tả Đức
tin phù hợp hơn với truyền thống Dân tộc” (Thư chung của HĐGM VN 1980).
(Trần Công
Thạch, Ủy ban đoàn kết Công giáo yêu nước TP
Hồ Chí Minh,
bài Vấn Đề
Công Cuộc Truyền Giáo Trong Quá Khứ Đặt Ra Cho
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Hiện Tại, sách đang
dẫn trang 216-217, 218-220)
Như thế, căn cứ
vào những vấn đề được tham luận
trong Hội Nghị Khoa Học năm 1988 này, “bóng tối”
trong lịch sử Thiên Chúa giáo tại Việt Nam được
ám chỉ ở đây là việc làm không thuần túy
truyền giáo của các vị thừa sai ngoại quốc,
cũng như thái độ truyền giáo tự tôn bất
chấp văn hóa bản xứ của các vị, đến
nỗi đă gây ra các cuộc bắt đạo và tử đạo.
Vậy c̣n “ánh sáng” trong lịch sử Thiên Chúa giáo tại
Việt Nam th́ sao? Cũng theo chiều hướng của
Hội Nghị này th́ đó là hiện tượng người
Việt Nam dù c̣ theo Thiên Chúa giáo đi nữa cũng
chẳng những không mất gốc lại c̣n biết xây
dựng quê hương dân tộc nữa.
Bởi thế, sau hết, “cho dù có v́ thời thế đẩy
đưa theo đạo, những người Thiên Chúa giáo
cũng vẫn trung thành với quê hương dân tộc”
(xem nhận định
có ba phần, mà đây là phần 3, ở trang 153):
Người công giáo Việt Nam
đă bị đẩy đến ngă ba đường;
họ biết đi về đâu khi tôn giáo và dân tộc,
giáo hội và quê hương bị chủ nghĩa tư
bản thực dân đặt vào thế mâu thuẫn nhau.
Nhưng sự lường
gạt, trói buộc, ḱm kẹp liệu có làm cho người
công giáo Việt Nam mất đi cái tư cách Việt Nam, cái
truyền thống Việt Nam không?
Như trên nói, Pháp đinh ninh
rằng khi nổ súng xâm lược Việt Nam th́ hàng
loạt giáo dân sẽ nổi dậy làm nội ứng. Chúng
đă chuẩn bị hàng chục năm, hàng trăm năm
rồi. Trên chiếc tàu chiến chỉ huy Némesis, bên cạnh
viên Tổng chỉ huy De Genouilly có giám mục Pellerin làm
cố vấn và 2 giáo sĩ thông thạo địa lư,
tiếng Việt, chuyên liên lạc với đất
liền.
Tiếng súng đă nổ ở
Đà Nẵng nhưng không có cuộc nổi dậy hưởng
ứng ồ ạt của người công giáo. Tiếng
súng chống xâm lược của quân dân ta từ Đà
Nẵng, đến Gia Định vang vọng lên khắp
các miền trong nước. Bài Văn tế các tướng
sĩ đánh Pháp tử trận của bảng nhỡn
Phạm Thanh:
“Nghe tiếng súng non Trà
nổ dữ,
những muốn săn cho
hết giống lợn không tha,
Trông khói tầu Cần
hải bốc cao,
những muốn chém cho
hết loài cá ḱnh mới hả;
Thẳng tiến để
xông pha giết giặc,
cái chết coi dễ như
chơi,
Rút lui th́ để vạ
về sau,
với giặc quyết không
chung sống”
De Genouilly thất vọng: “Người
ta báo cáo rằng dân chúng sẽ hưởng ứng chúng ta,
thật ra trái hẳn lại”
(A.
Thomazi. La conquête de l’Indochine. Paris. Payot. 1934. Tr. 31). “Chúng ta không có
một chút thiện cảm nào của người dân” (Prosper Cu ltru.
Histoire de la Cochinchine des origines à 1883. tr. 67)… Qua những tháng ở Đà
Nẵng y nghiệm ra rằng “Cuộc nổi dậy của
những con chiên không hề có như mong đợi” (A. Thomazi. La conquête de l’Indochine. Paris.
Payot. 1934. Tr. 30). Bọn
chỉ huy quân sự kết luận rằng: “Có biết bao
nhiêu cha cố đă coi thường chúng ta với những
tin tức họ cung cấp cho chúng ta về Đà Nẵng.
Thật là những kẻ dối láo đê hèn” (Savin de Larclause.
Correspondance… Xem B.S.E.I 1939, XIV, No 3-4, tr. 55). Trên tàu Némesis, mâu thuẫn
giữa Tổng chỉ huy với giám mục cố vấn
rất gay gắt, đến nỗi De Genouilly định đuổi
Pellerin về Hương Cảng.
Chúng
ta cần phải sưu tầm được nhiều tư
liệu về sự có mặt của người công giáo
trong hàng ngũ chống Pháp. Nhưng không có sự nổi
dậy hàng loạt của con chiên hưởng ứng quân
xâm lược; mưu đồ của chủ nghĩa
thực dân, của giáo hội (do các giáo sĩ phương
Tây thao túng) đă bị thất bại. Không thể không
khẳng định rằng: Trong sự sinh tử tồn
vong của dân tộc, trên ngă ba đường giữa tôn
giáo và dân tộc, lương tri Việt Nam của người
công giáo đă thức tỉnh cùng dân tộc. Sự kiện
đó đă trở thành một di sản quí của chính người
công giáo Việt Nam đă chọn lựa: không chấp
nhận mất nước th́ công giáo và dân tộc vẫn
gắn liền.
Đó
chính là cơ sở làm nảy sinh những hiện tượng
tiếp theo: có những người công giáo yêu nước
t́m về với dân tộc. Nguyễn Trường Tộ,
tác giả của điều trần Tám điều
cấp bách cuối thế kỷ XIX, Tu sĩ Mai lăo Bạng
và những thanh niên công giáo đi Đông du đầu
thế kỷ XX. Những trang đầu về truyền
thống yêu nước của đồng bào công giáo trong
cuộc chiến chung đầy gian nan thử thách của
dân tộc chống chủ nghĩa thực dân được
viết tiếp đến cách mạng tháng Tám, kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ.
(GS Nguyễn Công
B́nh, Viện Khoa học xă hội, TP Hồ Chí Minh,
bài Người
Công Giáo Việt Nam Biết Đi Về Đâu Khi Pháp Đánh
Chiếm Việt Nam,
sách đang
dẫn trang 38-41)
Ngay từ lúc Pháp mới khởi
đầu xâm lược Việt Nam, chúng tôi đă bắt
gặp một nhận định của một linh mục
Việt Nam: “Bọn giặc Tây dương xâm chiếm nước
ta nói là để xin bỏ lệnh cấm đạo,
chẳng qua là để đánh lừa dư luận thiên
hạ mà thôi. Những việc chúng làm đều là cậy
sức mạnh hung tàn, há người theo đạo Thiên Chúa
có thể coi đó là đồng đạo, đồng tâm
được sao?…” Cũng vào thời này, chúng ta c̣n có
Nguyễn trường Tộ, là người tuy đă được
các giáo sĩ người Pháp nâng đỡ, dạy cho
chữ Pháp và đem sang Pháp, rồi về Sài G̣n tiến
cử với thực dân Pháp nhưng ông một mực không
chịu làm tay sai cho Pháp, và suốt cả cuộc đời
của ông từ đó cho tới chết, qua các bản điều
trần gửi triều đ́nh Tự Đức, chỉ
có ư định là t́m cách làm cho đất nước giàu
mạnh và đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi bờ
cơi của quê hương.
Cụ Phan Bội Châu trong
những ngày đầu đi t́m đồng chí (1904) đă
gặp được sự hưởng ứng của giới
Công giáo một cách không khó khăn. Trong quyển hồi kư
“Phan Bội Châu niên biểu” cụ c̣n nêu rơ tên của
một số linh mục, giáo dân và xứ đạo đă
giúp đỡ cụ. Và Mai Lăo Bạng, một tu sĩ, quê ở
Thọ Ninh, Hà Tĩnh, tháng 3-1908 đă đem vài chục
thanh niên Công giáo sang Hồng Kông theo chương tŕnh Đông
Du của Duy Tân Hội.
Và cũng có những linh mục
cốt cán của phong trào Duy Tân ở Nghệ Tĩnh như
Đậu Quang Lĩnh, Nguyễn Thần Đồng,
Nguyễn Văn Tường bị giặc bắt và
bị đày ra Côn Đảo, khi phong trào Duy Tân ở trong nước
bị bại lộ.
Ḷng căm thù giặc càng ngày
càng lên cao trong giới Công giáo. Cũng đă có những
sĩ phu Công giáo, ngay tại Hà Nội, năm 1922 đă bày
tỏ ḷng yêu nước và ư thức dân tộc bằng
việc viết thư đ̣i Khâm mạng Ṭa thánh can
thiệp để cải tiến dân sinh, nâng cao dân trí tại
một họ đạo. Linh mục Hoàng Mai Dĩnh đă
gắn liền tên tuổi của ḿnh với phong trào cách
mạng này…
Chúng tôi gợi lại một
cách vắn tắt tại Hội nghị này, những trang
sử trên đây về người Việt Nam Công giáo không
phải để tẩy xóa hay che lấp trang sử đen
tối khác của Giáo hội Công giáo Việt Nam, mà là để
khẳng định điều này là Công giáo tự bản
chất không phải là một cái ǵ mâu thuẫn với ḷng
yêu nước, yêu Tổ quốc.
(L.m. Phan Khắc Từ,
Ủy ban đoàn kết Công giáo yêu nước TP Hồ Chí
Minh,
bài Người
Việt Nam Công Giáo Trong Lịch Sử Bảo Vệ Và Xây
Dựng Đất Nước,
cùng sách đang
dẫn, trang 44-45, 50-51)
Nhân vụ án phong thánh này, chúng
ta đă lại đề cập tới vị thế của
người Công giáo trong xă hội, trong dân tộc và trước
thời cuộc. Đó là vấn đề không chỉ của
hiện tại, đă từng của quá khứ và vẫn
c̣n tương lai. Nh́n lại quá khứ, trong đầy
dẫy những lầm lỡ, ngộ nhận, đáng
tiếc… đến mức ngày nay c̣n có người mong
biện hộ cho người xưa rằng: “Nếu sau
này có vị nào dính líu vào việc người Pháp xâm
chiếm Việt Nam th́ phải nói rằng trong lương
tâm của họ hồi bấy giờ họ thấy
việc nhờ người Pháp đến để
chấm dứt việc bắt đạo là tốt và ngay
việc người Pháp cai trị Việt Nam họ cũng
suy nghĩ là tốt khi họ lầm tưởng rằng
người Pháp sẽ đem nền văn minh Kitô giáo cho
một nước lạc hậu” (Phát biểu của linh
mục Chân Tín). Vậy nhân dịp này, hăy nhớ đến
một người Công giáo kiệt xuất, sống ở đương
thời với những người tử v́ đạo,
trong đó có các thánh. Đó là ông Nguyễn Trường
Tộ, một người Công giáo không chỉ học xa
trông rộng, có trí kinh bang tế thế mà quan trọng
hơn, trong cảnh nước nguy nan, ông vừa làm quan vừa
theo đạo, sang tận châu Âu tiếp thụ giáo lư cũng như
kiến thức, làm việc với Tây nhưng vẫn
nghĩ đến nước. Chính ông với ư thức
trách nhiệm không chỉ với Nhà nước mà với
cả đạo giáo của ḿnh đă đưa ra
nhiều lời điều trần xác đáng về
nhiều mặt kinh tế, quân sự, chính trị, văn
hóa xă hội, và điều đáng nói là ông đă đưa
ra được một thái độ xử thế
rất đúng đắn trong mối quan hệ giữa Đạo
và Đời khi ông viết trong một bản điều
trần: “Không kỳ đạo giáo nào, hễ có người
phản nghịch loạn thường đều là người
đắc tội với đạo giáo, h́nh pháp không
thể tha thứ để giúp cho đạo giáo trong
sạch, c̣n những người yên phận tuân theo pháp
luật th́ phải cho họ được tự do (hành đạo),
cả hai cái đồng hành th́ có ǵ là trở ngại?” (Giáo môn luận,
1863, bản dịch của Chương Thâu, tài liệu
Văn sử học).
(Quốc Anh,
Viện Sử học Việt Nam, bài Làm Cho Sáng Chân Dung Các
Thánh,
sách đang
dẫn trang 144-145)
Trong những điều
kiện lịch sử phức tạp như vừa kể
trên, một điều mà mọi người đều đă
nh́n thấy và hết sức quan tâm là trong những trang đầu
lịch sử Giáo hội Việt Nam đă xuất hiện
những người Công giáo kính Chúa yêu nước
thiết tha, mở đầu cho truyền thống tốt
đẹp của đồng bào Công giáo. Họ không đối
lập một cách cực đoan tôn giáo và dân tộc, không đối
lập bổn phận người tín hữu trước
Thiên chúa và Giáo hội, với nghĩa vụ công dân trước
Tổ quốc và Dân tộc. Đó là người Công giáo thức
thời Nguyễn Trường Tộ cùng khá nhiều người
khác nữa. Ḷng yêu Tổ quốc vẫn là một
truyền thống luôn sống động trong đồng
bào Công giáo khiến cho chính sách chia rẽ lương giáo của
thực dân Pháp không hoàn toàn thành công ở mọi nơi,
mọi lúc. Cái truyền thống tiềm tàng đó đă được
tiếp sức, cổ vũ và hướng dẫn nhờ
chính sách đại đoàn kết đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong đó có chính sách
tôn giáo. Người Công giáo Việt Nam hôm nay có quyền
tự hào chính đáng về đóng góp ngày càng to lớn của
ḿnh vào sự nghiệp chung của đất nước,
về sự đổi mới đang diễn ra trong đời
sống của Giáo hội theo hướng một Giáo
hội thuộc một nước Việt Nam độc
lập có chủ quyền, một Giáo hội “sống Phúc
âm trong ḷng dân tộc” như được khẳng định
trong bức Thư chung năm 1980 của Hội Đồng
Giám Mục.
(Phát Biểu kết Thúc Hội Nghi
Khoa Học của GS Phạm Như Cương,
Ủy viên dự
khuyết Ban Chấp hành Trung Ương Đảng
Cộng Sản Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa
học Xă hội Việt Nam, cùng sách trang 10).
Tóm
lại, qua
cuốn Kỷ Yếu được trích dẫn trên đây,
Hội Nghị Khoa Học 1988 ở Việt Nam trước
biến cố Phong Thánh 117 Vị Tử Đạo (ba tháng)
đă nhận định là có những “bóng tối” phát ra từ
một số cá nhân thừa sai:
· “Có thể nói mà không sợ quá
đáng là sự giúp đỡ của các giáo sĩ Pháp đă
giúp thực dân Pháp vượt qua rất nhiều khó
khăn và hoàn thành thuận lợi cuộc xâm lược và
b́nh định Việt Nam…” (xem lại trang 160)
·
“Như vậy, xu
thế dấn thân sâu vào việc đời của các giáo
sĩ truyền đạo tới mức có sự gắn
bó mỗi ngày một mật thiết với âm mưu xâm lược
của chủ nghĩa thực dân phương Tây là điều
có thực, không thể phủ nhận” (xem lại trang 161)
Thế
nhưng:
·
“Sự dính líu
giữa Giáo hội với chủ nghĩa thực dân phương
Tây vốn không thuộc về bản chất của
sự truyền giáo: đó là sự dính líu mang tính chất
thời đại lúc bấy giờ… nhất là từ sau
những phát kiến địa lư… Sự dính líu của
Giáo hội La Mă và của Hội Thừa sai Paris với
cuộc thực dân của các thế lực tư sản
phương Tây … hẳn là đă không hoàn toàn phát xuất từ
bản chất thiêng liêng và nhân ái của sự truyền
giáo” (xem
tr. 159)
·
“Công giáo tự
bản chất không phải là một cái ǵ mâu thuẫn với
ḷng yêu nước, yêu Tổ quốc” (xem lại trang 192)
·
“Lẽ tất
nhiên cũng như mọi hiện tượng xă hội,
trong số giáo dân và giáo sĩ truyền giáo cũng có người
chỉ v́ ḷng tin của ḿnh, đă đem hết nhiệt
t́nh hoạt động để mở rộng xứ đạo”
(trích
Kỷ Yếu trang 102)
Chính v́ thế:
·
“Mặc dù
vậy, công việc truyền giáo vẫn được
phát triển vào những năm cuối thế kỷ 17 và
giáo phận Thiên chúa ở Huế – Đà Nẵng –Hội An
trở thành một trung tâm truyền giáo lớn ở nước
ta thời đó” (trang 162)
·
“Mặc dù các nhà nước
phong kiến liên tục tiến hành nhiều cuộc
cấm đạo (1630, 1644, 1658, 1663, 1665, 1668, 1700, 1712, 1737,
1744, 1750, 1765, 1773, 1785) nhưng sự truyền giáo vẫn
không ngừng phát triển, số người theo đạo
vẫn ngày một đông ra” (xem lại trang 165).
· “Thực vậy, tính đến
giữa thế kỷ XIX, việc truyền giáo vào Việt
Nam của Hội Thừa sai Paris đă trải qua hai
thế kỷ và đă gặt hái được những
thành tựu lớn thuộc loại nhất nh́ ở Đông
Nam Á” (trích
Kỷ Yếu trang 22)
Đến
nỗi:
·
“Phải khiêm
tốn nh́n nhận điều này là sau ba thế kỷ nỗ
lực Giảng Tin Mừng, hiện nay có được
một Giáo hội nhiệt thành sùng đạo với đức
tin vững mạnh lạ lùng” (xem lại trang 185)
Ở chỗ:
·
“Những đóng
góp của Kitô giáo trong kho tàng văn hóa của Việt Nam” (xem lại trang 186)
·
“Trong những điều
kiện lịch sử phức tạp như vừa kể
trên, một điều mà mọi người đều đă
nh́n thấy và hết sức quan tâm là trong những trang đầu
lịch sử Giáo hội Việt Nam đă xuất hiện
những người Công giáo kính Chúa yêu nước
thiết tha, mở đầu cho truyền thống tốt
đẹp của đồng bào Công giáo. Họ không đối
lập một cách cực đoan tôn giáo và dân tộc, không đối
lập bổn phận người tín hữu trước
Thiên chúa và Giáo hội, với nghĩa vụ công dân trước
Tổ quốc và Dân tộc. Đó là người Công giáo thức
thời Nguyễn Trường Tộ cùng khá nhiều người
khác nữa” (xem lại trang 193)
·
“V́ Quê hương
này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để
sống làm con của Người, Đất nước
này là ḷng mẹ cưu mang chúng ta trong quá tŕnh thực
hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, Dân tộc này là
cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ
với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa”
(Thư
chung của HĐGMVn 1980, xem lại trang 187).