Đối với dân Do Thái,
thành phần được Thiên Chúa tuyển chọn để
tỏ ḿnh ra cho họ biết Ngài thật là “Thiên Chúa chân
thật duy nhất” (Jn 17:3),
Chúa Kitô tỏ ḿnh ra “là sự thật”, ở chỗ, Người
cho họ thấy Người chính là “Đấng Cha sai” (Jn 17:3), tức là Con Thiên Chúa từ
trời xuống. Để trả lời cho vị thượng
tế đại diện Hội Đồng Do Thái hết
sức trịnh trọng dứt khoát hỏi Người:
“Nhân danh Thiên Chúa hằng sống Ngươi có phải
là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hay chăng?” (Mt 26:63), Người tuyên bố:
· “Chính là Tôi; rồi
quí vị sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng
Quyền Năng và đến trên mây trời” (Mk 14:62).
Chúa Giêsu đă biết trước
hậu quả của việc tỏ “sự thật”
về thân phận ḿnh “là Con Thiên Chúa” ra, không phải
hậu quả là Người sẽ bị “dân riêng Người”
lên án tử (xem
Mt 26:66, Mk 14:64), mà
hậu quả là họ chẳng những không thể nào
chấp nhận được “sự thật” ấy mà
c̣n v́ “sự thật” này vấp phạm nữa, đúng như
lời Người đă báo trước cho chung dân Do Thái cũng
như riêng các môn đệ của Người biết
rằng:
· “Tôi sẽ ra đi. Quí
vị sẽ t́m Tôi nhưng quí vị sẽ chết trong tội
lỗi của ḿnh. Nơi Tôi đi quí vị không thể nào
đến được” (Jn 8:21, xem cả 7:33-34, 13:33)
Tuy con người tự ḿnh
không thể nhận ra “sự thật”, nhận ra Người
“là Con Thiên Chúa”, dù Người có minh nhiên cho họ biết
như họ muốn và hết sức kiếm t́m đi
nữa, Người cũng đă có cách để làm cho
họ có thể nhận ra “sự thật” cụ thể
sống động song lại vô cùng mâu thuẫn khó có
thể chấp nhận trước con mắt trần gian
này. Đó là Người đă thực sự “ra đi” đến
nơi Người phải đến nơi thập
tự giá, v́ chỉ có ở đây họ mới nhận ra
Người, nhận ra “sự thật” mà họ t́m
kiếm:
· “Một khi Tôi bị treo lên
khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi sự lên cùng Tôi”
(Jn 12:32);
Thật vậy, Chúa Giêsu đă
chứng tỏ ḿnh thực sự “là Con Thiên Chúa” ngay
chính trong thân phận của một “con người” (Jn 19:5) vô cùng hèn yếu dưới
con mắt của Tổng Trấn Philatô cũng như trước
mắt của dân chúng Do Thái, nhất là bằng cuộc
tử nạn vô cùng thương đau khổ nhục trên
câp thập tự giá, hoàn toàn trở nên bất lực và
thảm bại, đúng như những lời thách thức
của dân chúng cũng như của thành phần lănh đạo
dân chúng:
· “Dân chúng xỉ nhục Người,
lắc đầu nói: ’…Hăy xuống khỏi thập giá đi
nếu ngươi là Con Thiên Chúa!…’. Các trưởng
tế, luật sĩ và kỳ lăo cũng nhào vô mỉa mai
rằng: ‘Hắn đă cứu được kẻ khác mà
không thể tự cứu được bản thân ḿnh!
Vậy mà hắn là vua dân Yến-Duyên đấy! Chúng ta hăy
thử xem nếu hắn xuống khỏi thập giá th́ chúng
ta sẽ tin vào hắn. Hắn tin cậy vào Thiên Chúa th́ giờ
đây hăy để cho Thiên Chúa giải cứu hắn
nếu Ngài muốn. Đằng nào th́ hắn cũng tuyên
bố Ta là Con Thiên Chúa rồi mà’” (Mt 27:39-43)
Thế mà, chính cái chết của
“con người” Giêsu này đă làm cho dân ngoại nhận ra
“sự thật” trước hết:
· “Viên đại đội
trưởng đứng canh Người, khi thấy cách Người
chết th́ tuyên xưng rằng: ‘Người này
quả thật là Con Thiên Chúa!’” (Mk 15:39, xem cả Mt 27:54, Lk 23:47).
· “Khi dân chúng tụ họp ở
đó thấy những ǵ xẩy ra th́ trở về đấm
ngực ăn năn” (Lk 23:48).
Thật thế, chân lư Chúa
Giêsu “là Con Thiên Chúa” có một tầm mức vô cùng quan
trọng, bởi v́, nếu Chúa Giêsu thực sự “là Con
Thiên Chúa” th́ Chúa Giêsu chẳng những đă trực
tiếp “làm chứng cho chân lư” là chính bản thân ḿnh mà c̣n
gián tiếp “làm chứng cho chân lư” trong việc “tỏ Cha
ra” (Jn
1:18) nữa. Nói đúng
hơn, mục tiêu và sứ mệnh chính yếu của Chúa
Kitô đến là để “tỏ Cha ra”, nhất là, cách
riêng và trước tiên, cho thành phần môn đệ thân
cận của Người (xem Jn 14:8-11, 17:6-7), qua bản thân Người
cũng như bằng đời sống của Người,
nhất là bằng cuộc Vượt Qua của Người,
để cho “ai thấy Thày là thấy Cha” (Jn 14:9). Bởi thế, “sự
thật” chính yếu Chúa Giêsu muốn làm chứng đây là
“sự thật” về Chúa Cha, một “sự thật” được
diễn tả nơi “vị trung gian duy nhất giữa
Thiên Chúa và loài người là con người Chúa Giêsu Kitô, Đấng
đă hiến ḿnh làm giá chuộc cho tất cả mọi người”
(1Tim
2:5-6).
Đúng vậy, nếu nhân
vật lịch sử mang tên Giêsu, “Đấng đă
hiến ḿnh làm giá chuộc cho tất cả mọi người”,
quả thực “là Con Thiên Chúa”, th́ Người cũng đă
thực sự chứng tỏ cho con người
thấy một “sự thật” vô cùng bàng hoàng và cảm động,
đó là con người trần gian hèn mọn được
“Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24)
yêu thương:
· “Thiên Chúa yêu thương
thế gian đến nỗi đă ban Con Một của
Ngài, để ai tin vào Con th́ không phải chết, song được
sự sống đời đời” (Jn 3:16).
Nếu “sự thật” Đức
Giêsu “là Con Thiên Chúa” hoàn toàn gắn liền với “sự
thật” về “Thiên Chúa yêu thương thế gian” thế
nào, th́ “sự thật” Đức Giêsu “là Con Thiên Chúa” cũng
liên hệ sâu xa đến “sự thật” về thân
phận của con người như vậy. “Sự
thật” ấy là: con người được Thiên Chúa
yêu thương, đến nỗi nhân tính của họ nói
chung và thân xác hèn mọn của họ nói riêng được
“Thiên Chúa là Thần Linh” mặc lấy, qua việc “Lời đă
hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14).
Bởi thế, khoa nhân
loại học của Kitô Giáo, một khoa nhân loại
học siêu nhiên, mới được bắt nguồn
từ và qui hướng về “sự thật” là Thiên Chúa
yêu thương con người trong Đức Giêsu Kitô Con
Ngài, Lời Nhập Thể. Sau đây là những chân lư đức
tin, cùng với một số hệ luận căn bản
và những kết luận thực tiễn nơi khoa nhân
loại học siêu nhiên của Kitô Giáo:
Chân lư 1:
“THIÊN CHÚA ĐĂ YÊU THƯƠNG
THẾ GIAN
ĐẾN NỖI ĐĂ BAN
CON MỘT CỦA M̀NH”
Hệ luận 1: Bởi đó, con người
tự ḿnh có một Giá Trị Thần Linh Siêu Việt, một
giá trị không phải do con người công nhận mà có,
khi con người căn cứ vào nguyên tắc tâm lư tự
nhiên “tri kỷ tri bỉ”, suy bụng ta ra bụng người,
(v́ muốn được người tôn
trọng nên tôn trọng người, muốn được
người yêu nên yêu người), hay căn cứ vào đường
lối công bằng “ái nhân như kỷ”, (v́ sợ rằng
không yêu người th́ người cũng không yêu ḿnh, không
trọng người th́ người cũng không trọng
ḿnh).
Lịch sử cho thấy,
nếu phẩm giá của con người là do con người
công nhận mà có, th́ phẩm giá ấy là một sản
phẩm nhân tạo thuần túy, hoàn toàn tùy thuộc vào con người,
đến nỗi, nó có thể bị chính con người
là tác giả của nó bóp méo. Điển h́nh nhất là
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền được Liên Hiệp
Quốc công bố năm 1948, chưa đầy nửa
thề kỷ sau, nó đă bị lệch lạc và hết sức
lem luốc bởi những khoản luật pháp công
nhận và cho phép con người: được “quyền”
phá thai, được “quyền” tạo sinh ngoại nhiên, được
“quyền” đồng tính luyến ái, được
“quyền” lập gia đ́nh đồng tính, được
quyền “trợ tử”, và với đà trào lưu duy nhân
bản thừa thắng xông lên này, con người chắc
chắn cũng sẽ tự ban cho ḿnh được
“quyền” ghép sinh (cloning), tóm lại, toàn là những
“quyền” phi nhân bản và phản nhân bản.
Chân Lư 2:
Hệ luận 2: Bởi đó, tất
cả những ǵ là thấp hèn nơi con người, có
tính chất yếu đuối (như phái nữ hay con
nít), tầm thường (như nghèo nàn kém cỏi),
khuyết tật (về thể lư), điên khùng, khù khờ
hay thất học (về tâm lư, kể cả trường
hợp bị quỉ ám), thậm chí tội lỗi (về
luân lư), đều không c̣n đáng khinh khi, đáng ghét
bỏ, cần phải xa tránh hay loại trừ nữa, trái
lại, chúng đă được cứu chữa và thánh hóa
trong cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô.
· “Người gần gũi với
người nghèo, với người bị bỏ quên và
thấp hèn, tuyên bố rằng họ là những người
thực sự có phúc, v́ Thiên Chúa ở cùng họ. Người
đă ăn uống với những người tội lỗi,
cam đoan với họ rằng nơi bàn tiệc của
Cha Người cũng đă có chỗ cho họ, một khi
họ bỏ những đường lối tội lỗi
mà trở về với Ngài. Chạm đến người
ô uế và để họ chạm đến ḿnh, Người
cho họ nhận thấy được việc Thiên Chúa
gần gũi họ. Người khóc thương một
người bạn của ḿnh qua đời, Người đă
hồi sinh đứa con trai của một bà mẹ góa, Người
đă tiếp đón trẻ em, và Người đă rửa
chân cho các môn đệ của Người.
“Tất
cả những người bị bệnh hoạn,
khập khễnh, không thấy, không nghe, không nói đều
cảm được tác động đụng chạm
chữa trị và thứ tha của Người. Người
đă chọn một nhóm dị thường làm bạn đường
và làm cộng tác viên thân cận nhất của ḿnh, trong đó
có thành phần đánh cá lẫn thu thuế, thành phần
Nhiệt Thành cực đoan cùng với người ít
hiểu biết về Lề Luật, cả thành phần
phụ nữ nữa. Một gia đ́nh mới đă được
thành h́nh trong ḷng Chúa Cha yêu thương ôm ấp tất
cả mọi người một cách lạ lùng...
“Nơi
Chúa Giêsu Kitô, bằng quyền năng của Chúa Thánh
Thần, chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa không xa vời, trổi
vượt và cách biệt con người, trái lại,
rất gần gũi, nói đúng hơn, thật sự nên một
với mọi người cũng như với toàn
thể nhân loại trong tất cả mọi hoàn cảnh của
con người. Đây là sứ điệp Kitô Giáo cống
hiến cho thế giới, và sứ điệp này là nguồn
an ủi, nguồn hy vọng khôn sánh cho tất cả mọi
người tin tưởng...
“Bởi
vậy, nơi Chúa Giêsu, chúng ta khám phá ra tầm vóc cao cả
và phẩm vị của mỗi một con người trong
ḷng Thiên Chúa, Đấng đă dựng nên con người
theo h́nh ảnh Ngài (x.
Gn 1:26), và chúng ta cũng
t́m thấy mạch nguồn của cuộc tân tạo chúng
ta đă được hưởng nhờ ơn Người.”
(Tông Huấn Giáo Hội Tại
Á Châu, xem
lại các trang 104-105, 109-110).
Qua những chân lư đức
tin và hệ luận căn bản trên đây, chúng ta có
thể kết luận như sau:
1. Phải tôn trọng toàn
diện con người, và tôn trọng tận đáy ḷng của
ḿnh:
· “Ai nh́n người nữ
theo nhục dục th́ đă phạm tội ngoại t́nh với
họ trong tâm tưởng của ḿnh rồi” (Mt 5:28).
Qua câu này, Chúa Kitô dạy con người
phải tôn trọng tận đáy ḷng ḿnh chẳng
những bản thân của nữ giới nói chung, mà c̣n
cả thân xác của họ nữa. Như thế, trước
mắt Chúa Kitô, con người nói chung và người
nữ nói riêng có giá không phải chỉ ở chỗ
những ǵ họ có, như “công, dung, ngôn, hạnh”, như
“tứ đức tam ṭng”, cũng hay bên nam nhân có “trung,
hiếu, nghĩa”, mà là ở chính bản chất là người
của họ. Do đó, Kitô Giáo đă không bao giờ
chấp nhận tục đa thê, tục cha mẹ đặt
đâu con (gái) ngồi đó v.v.
2. Phải phục vụ con người
một cách chủ động và tích cực, đến nỗi,
nếu cần phải hy sinh cả mạng sống ḿnh cho
nhau:
· “Ai trong các con muốn làm lớn
th́ phải phục vụ người khác, và ai muốn làm đầu
trong các con phải phục vụ nhu cầu cho hết mọi
người. Đó là đường lối Con Người
đă đến không phải để được
hầu hạ, song để phục vụ, để
hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người”
(Mt 20:28).
Ư nghĩa của tất
cả những ǵ con người có, như giầu sang phú
quí, tài giỏi, khôn ngoan, nhất là có quyền bính v.v., theo
Phúc Âm của Chúa Kitô, là để chia sẻ và phục vụ
công ích, chứ không phải để hưởng thụ
cho phúc lợi riêng ḿnh. Bởi thế, về phương
diện tiêu cực, con người không được “sống
đời sống thần linh sảng khoái” (trang 93) chỉ v́ khinh khi thế
gian, chỉ v́ muốn đỡ gánh nặng, muốn thoát lụy
phiền, trong khi ḿnh có thể và có khả năng xây
dựng cộng đồng xă hội loài người, và
về phương diện tích cực, để “tề
gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”, con người,
nhất là thành phần “quân, sư, phụ”, cần
phải tích cực và chủ động đóng vai tṛ tôi tớ
phục vụ bầy tôi của ḿnh, chứ không phải
bầy tôi phục dịch ḿnh hoặc chỉ có bầy tôi
mới phải liều chết v́ chủ của họ.
3. Phải yêu thương
tất cả mọi người không trừ ai, kể
cả kẻ thù ḿnh:
· “Các con hăy yêu thương
kẻ thù ḿnh và hăy làm lành; hăy cho vay mượn mà không mong hoàn
trả. Rồi các con sẽ nhận được
phần bồi thường lớn lao. Các con sẽ xứng
đáng được gọi là con cái của Đấng
Tối Cao, v́ chính Ngài đối xử tốt lành với
kẻ vô ơn và người gian ác. Các con hăy xót thương
như Cha các con là Đấng thương xót” (Lk 6:35-36).
Theo Phúc Âm của Chúa Kitô ở
đây, con người chẳng những phải tỏ ḷng
“từ bi hỉ xả” trong việc quảng đại
bao dung tha thứ cho kẻ thù ḿnh, mà c̣n phải chủ động
và tích cực tiếp tục “yêu thương” kẻ thù ḿnh
nữa. Do đó, ngay sau khi khẳng định con người
cần phải yêu thương cả kẻ thù ḿnh, Người
c̣n thúc giục họ “làm lành” cho kẻ thù của họ, ở
chỗ:
· “Các con hăy yêu thương
kẻ thù ḿnh, hăy làm lành cho kẻ ghét các con; hăy chúc lành cho
những ai nguyền rủa các con và hăy cầu nguyện cho
những ai đối xử tàn tệ với các các. Khi nào
có ai tát các con má này, th́ hăy ch́a cả má kia cho họ nữa…”
(Lk
6:27-29)
Thật ra, việc tha thứ
cho nhau là một thái độ và là một dấu chứng
yêu thương tuyệt hảo, đến nỗi, nếu
không yêu thương nhau thật, không yêu nhau trọn lành không
thể nào tha thứ cho nhau được. Tuy nhiên, nếu
chỉ dừng lại ở nguyên việc tha thứ cho
kẻ thù ḿnh mà không tiến tới chỗ “làm lành” cho họ,
th́ việc tha thứ này có thể là một việc tha thứ
bất đắc dĩ, một việc tha thứ chỉ
v́ nếu không làm th́ sợ người ta cho ḿnh là chấp
nhất hèn mọn, hay cần phải tha thứ v́ ḿnh là đại
nhân quân tử không thèm chấp con người tiểu nhân
ti tiện. Trái lại, nếu thật t́nh và hết ḷng “yêu
thương” kẻ thù ḿnh th́ không cần họ phải đến
xin lỗi, ḿnh cũng đă tự động tha cho họ
rồi (xem
Mt 5:23-24), và một khi đă tha th́ không
phải chỉ tha cho họ một vài lần mà là tha luôn luôn,
tha măi măi, tha không cùng (xem Mt 18:21-22).
Đúng thế, chỉ khi nào
con người ư thức được rằng ḿnh bao giờ
cũng phải là anh em của mọi người chứ
không phải thái độ chọn lựa chủ quan “ai
là anh em tôi?” (Lk
10:29), th́ bấy giờ
họ mới có thể phản ảnh trung thực Chúa
Giêsu Tử Giá, Đấng chẳng những “xin Cha tha cho
họ v́ họ lầm không biết việc họ làm” (Lk 23:34) mà c̣n “khát” (Jn 19:28) phần rỗi của họ
nữa, và bấy giờ họ cũng mới có thể nên
giống Thiên Chúa qua h́nh ảnh người cha từ ái của
đứa con hoang đàng, chẳng những đă tha thứ
cho nó trước khi nó lên tiếng xin lỗi ḿnh, lại
c̣n mở tiệc linh đ́nh trọng thể để
ăn mừng nó trở về nữa (xem Lk 15:20-24).
Thế nhưng, để
thực sự có “Tiên phong, Đạo cốt” (trang 91) này, có một “Đại
Ngă mênh mông” (trang
67) ấy, hay để
“Đắc Đạo là Hợp Thiên” (trang 91), hoặc để trở
thành “Thánh nhân là hiện thân của Trời” (trang 80) như thế, con người
cần phải có chính tinh thần của Trời, tức
phải có chính Tấm Ḷng Toàn Ái của Đấng Tối
Cao, hay phải có Thần Linh cũng vậy, Đấng
“thấu suốt mọi sự, kể cả những ǵ sâu
thẳm nhất nơi Thiên Chúa” (1Cor 2:10),
Đấng sẽ tác động “chính tâm”, “chân tâm”
và “tâm tử” của họ “theo đúng ư muốn của
Thiên Chúa” (Rm
8:27):
· “T́nh yêu của Thiên Chúa đă
tuôn tràn vào ḷng chúng ta nhờ Thánh Linh là Đấng được
ban cho chúng ta” (Rm
5:5);
· “Tất cả những ai được
Thần Linh Thiên Chúa dẫn dắt đều là con cái của
Thiên Chúa” (Rm
8:14);
· “Là Thần Chân Lư, khi đến,
Ngài sẽ dẫn chúng con vào tất cả sự thật…
Làm như thế tức là Ngài tôn vinh Thày, v́ Ngài sẽ
nhận lănh từ Thày những ǵ Ngài sẽ truyền đạt
cho các con. Tất cả những ǵ Cha có đều ở nơi
Thày. Đó là lư do Thày nói những ǵ Ngài truyền đạt
cho các con Ngài đều lấy từ Thày” (Jn 16:13-15).
Tóm lại, tầm vóc Tuyệt
Đỉnh Trọn Lành của Kitô Giáo chính là Mô Thức
Thần Linh: “Trọn lành như Cha trên trời của
các con là Đấng trọn lành” (Mt 5:48), Linh Đạo Duy Nhất để
Kitô Hữu có thể “đạt tới tầm
vóc viên trọn của Chúa Kitô là đầu” (Eph 4:15,13) chính là “được
tái sinh bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:5), và Đạo là Đường
Lối Thần Hiển “trong tinh thần và chân lư” (Jn 4:23,24).