Ánh Sáng Đă Chiếu Soi… 

 

T

heo nhiệm ư của Thiên Chúa, Hạt Giống Thần Linh là “Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14) được gieo xuống thế gian không ở một vùng đất hoang vu (ngẫu tượng) nào khác, mà lại ở ngay giữa miền đất đă có đầy những hạt giống đạo giáo, tức đă được trồng cấy ph́ nhiêu mầu mỡ (đạo lư). Thật vậy, so với Triết lư Hy Lạp bên Tây Phương (xuất hiện cùng thời với Tam Giáo trước Chúa Kitô Giáng Sinh), một khoa học t́m ṭi hoàn toàn thiên về lư trí và thuần siêu h́nh, th́ Tam Giáo Phật-Nho-Lăo đúng là đạo lư, là khát vọng t́m kiếm siêu độ (siêu thoát và cứu độ).

 

Chẳng thế mà sau khi “Chúa Cứu Thế là Đấng Thiên Sai và là Chúa đă giáng sinh trong thành Đavít” (Lk 2:11), “các chiêm tinh gia từ phương đông” (Mt 2:1), vừa thấy “ngôi sao của Người hiện lên” (Mt 2:2), đă “đến để triều bái Người” (Mt 2:2,11), tức đă tỏ ra tôn nhận vương quyền và tôn kính thần tính cùng nhân tính của “vị tân vương Do Thái mới được sinh ra” (Mt 2:2), bằng cách “đă dâng lên cho Người các tặng vật là vàng, nhũ hương và mộc dược” (Mt 2:11).

 

Nếu “Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” quả là “ánh sáng thật đă đến trong thế gian chiếu soi hết mọi người” (Jn 1:9), bắt đầu phát ra ngay giữa miền đất đạo giáo này, th́ chắc chắn đạo lư của Người phải làm cho ḷng con người chưa nhận biết Người nói chung, nhất là những tín đồ theo các tôn giáo khác nói riêng, t́m được chân lư đích thực, chiếm được “sự sống viên măn” (Jn 10:10) và đạt được hạnh phúc bất diệt.

 

Thật vậy, v́ là “ánh sáng thật”, do đó, lịch sử nhân loại đă chứng thực cho thấy như sau:

 

Trước hết, về phương diện vị thế của ḿnh, “ánh sáng thật” đó là một thứ ánh sáng hiện lên để thực sự làm sáng tỏ các lời tiên tri trong Cựu Ước của dân Do Thái nói riêng: “Thày đến không phải để hủy bỏ mà là để làm cho lề luật và các lời tiên tri được nên trọn” (Mt 5:17), cũng như để hoàn toàn làm sáng tỏ tất cả những đạo lư sẵn có của loài người nói chung: “Lư do Tôi đến thế gian là để làm chứng cho chân lư. Ai quyết tâm t́m kiếm chân lư th́ nghe thấy tiếng Tôi” (Jn 18:37).

 

Sau nữa, về phương diện mănh lực, “ánh sáng thật” là một thứ “ánh sáng đă chiếu trong tối tăm, song tối tăm không thắng được ánh sáng” (Jn 1:5). Tức là chính bản thân Chúa Kitô, Giáo Tổ Kitô Giáo, cũng như cả Giáo Hội Chúa Kitô, chẳng những không bị tận diệt bởi các chống đối nội bộ (Do Thái với Chúa Kitô, lạc giáo đối với Giáo Hội) cũng như bởi những cuộc bách đạo từ bên ngoài xẩy ra khắp nơi ngay từ ban đầu (khi Chúa Kitô mới Giáng Sinh) cho tới nay (thế kỷ văn minh chưa từng thấy), mà c̣n càng v́ vậy và nhờ vậy lại càng lớn mạnh và vươn “đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8) như thế giới đă hiển nhiên thấy.

 

Sau hết, về phương diện tác dụng, “ánh sáng thật” là một thứ ánh sáng làm cho “ai theo sẽ không đi trong tăm tối, song sẽ được ánh sáng sự sống” (Jn 8:12). Tức là Phúc Âm của Chúa Kitô “được rao giảng cho tất cả mọi dân nước, bắt đầu từ Gialiêm” (Lk 24:47), qua chứng tá sống động và việc truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội Người, thực sự đă “canh tân bộ mặt trái đất” là chính con người và văn hóa của con người, đă làm cho con người, từ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, dần dần ra khỏi những tối tăm lạc hậu của ḿnh về luân thường đạo lư (như tục đa thê, ép duyên v.v.), để tiến tới mức độ văn minh nhân bản hơn (như về nhân quyền, về phục vụ và thăng tiến xă hội loài người v.v.).

 

Dịp Lễ Ánh Sáng ở Ấn Độ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă thực hiện một cuộc tông du để ban bố văn kiện đúc kết Thượng Hội Giám Mục Á Châu năm 1998, đó là Bức Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia in Asia.

 

’Hăy bước đi như con cái ánh sáng, v́ hoa trái ánh sáng được thấy nơi tất cả những ǵ là tốt lành, đúng phải

    và chân thật’ (Eph 5:8-9).

Anh chị em thân mến,

 

Hôm nay, cả xứ sở rộng lớn của anh chị em nhiều người đang cử hành Cuộc Lễ Ánh Sáng. Chúng ta cùng mừng với họ, và trong Thánh Lễ này, ở Tân Đề Li tại Ấn Độ trên địa lục Á Châu đây, chúng ta cũng hân hoan trong ánh sáng và làm chứng cho Đấng là ‘ánh sáng thật chiếu soi mọi người’ (Jn 1:8).

 

Thiên Chúa là Cha giầu ḷng thương xót đă ban cho Tôi niềm vui được đến với anh chị em để công bố Tông Huấn Ecclesia In Asia Giáo Hội Tại Á Châu, một thành quả đầy công khó của Thượng Hội Giám Mục Á Châu họp tại Rôma năm ngoái. Thượng Hội Giám Mục Á Châu này là ǵ? Chính là việc các Vị Giám Mục đại diện Giáo Hội ở lục địa này tụ họp nhau lại. Các Vị Giám Mục tụ họp nhau lại ấy đă làm những ǵ? Trước hết, các vị lắng nghe tiếng nói của Thần Linh trong nguyện cầu; các vị suy nghĩ về đường lối Giáo Hội nơi các dân tộc Á Châu đă hành tŕnh cho tới nay; các vị nhận thấy ân huệ về ‘thời giờ’ Giáo Hội hiện nay đang sống trên địa lục này; các vị thúc đẩy toàn thể Dân Chúa càng trung thành với Chúa cũng như với công việc phúc âm Người đă ủy thác cho tất cả mọi người lănh nhận phép rửa v́ lợi ích của gia đ́nh nhân loại.

 

Hôm nay, ở nơi đây, anh chị em thân mến, anh chị em đại diện cho cộng đồng Công Giáo, chẳng những ở Ấn Độ mà c̣n đại diện cho cả lục địa Á Châu nữa, Tôi trao vào tay anh chị em Bức Tông Thư Hậu Thượng Hội Giám Mục Á Châu này, để làm như một bản hướng dẫn cho đời sống thiêng liêng cũng như cho sinh hoạt mục vụ của Giáo Hội nơi địa lục này, lúc mà chúng ta đang tiến vào một thế kỷ mới và một ngàn năm Kitô Giáo mới.

 

Thật là xứng hợp cho văn kiện đây được kư và ban hành tại Ấn Độ, nơi phát xuất ra nhiều nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống thiêng liêng được tôn kính qua gịng thời gian. Những nền văn minh cổ kính Á Châu này đă làm nên đời sống của các dân tộc nơi địa lục này và đă ghi dấu vết không thể xóa nḥa nơi lịch sử loài người...”

 

(Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Bài Giảng trong Thánh Lễ tại Thao Trường Jawaharlal Nehru, sáng Chúa Nhật ngày 7/11/1999:

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/11/1999, đoạn 1 và đầu đoạn 2)

 

 

Sau đây là chính Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia in Asia, (nguyên trọn phần II, trong 7 phần, không kể mở và kết) phần về “Chúa Giêsu Cứu Thế: Một Tặng Ân cho Châu Á”:

 

 

MỘT TẶNG ÂN ĐỨC TIN

 

10-       “Như Cuộc Thượng Hội Giám Mục Á Châu bàn luận về những thực tại phức tạp cho thấy, th́ mọi người đều nhận thức được là tất cả những ǵ chuyên biệt Giáo Hội đóng góp cho các dân tộc của địa lục này chính là việc loan báo Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, Đấng Cứu Thế duy nhất của tất cả mọi dân tộc (xem Proposio, 5). Điều làm Giáo Hội khác biệt với các cộng đồng tôn giáo khác là đức tin của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu Kitô; và Giáo Hội không thể giữ ánh sáng đức tin quí báu này dưới chân đế (x. Mt 5:15), v́ sứ mệnh của Giáo Hội là chia sẻ ánh sáng ấy cho mọi người. ‘(Giáo Hội) muốn cống hiến sự sống mới Giáo Hội có nơi Chúa Giêsu Kitô ấy cho tất cả mọi dân tộc Á Châu, khi họ t́m kiếm viên măn tính của sự sống, để họ được thông hiệp với Chúa Cha và Chúa Giêsu Kitô Con Ngài trong quyền lực của Thần Linh’ (Relatio ante disceptationem, 5). Đức tin nơi Chúa Kitô ấy làm phấn khởi việc truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội Tại Á Châu, thường được thực hiện trong những hoàn cảnh khó khăn thậm chí nguy hiểm. Các Nghị Phụ Thượng Hội đă nhận định rằng, việc loan truyền Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất có thể gặp phải những khó khăn đặc biệt nơi văn hóa của các vị, v́ nhiều tôn giáo Á Châu dạy cho biết chính những việc hiển hiện thần linh đă là môi giới cứu độ rồi. Chẳng những các Vị Nghị Phụ Thượng Hội Giám Mục Á Châu không lấy làm nản chí, trái lại, những thách đố đối với nỗ lực truyền bá phúc âm hóa của các vị lại càng khích thích nỗ lực thực hiện việc truyền đạt ‘niềm tin là Giáo Hội Tại Á Châu đă được lưu truyền từ các Vị Tông Đồ và gắn bó với Hội Thánh qua mọi đời và ở hết mọi nơi’ (Relatio post deceptationem, 3). Thật vậy, các vị đă nói lên niềm xác tín là ‘tâm can của Giáo Hội Tại Á Châu sẽ không yên nghỉ cho tới khi cả Á Châu được nghỉ yên trong b́nh an của Chúa Kitô, Chúa Phục Sinh’ (Proposio, 8).

 

Đức tin vào Chúa Kitô của Giáo Hội là một tặng ân được lănh nhận và cũng là một tặng ân để chia sẻ; đức tin này là một tặng ân cao cả nhất Giáo Hội có thể cống hiến cho Á Châu. Chia sẻ chân lư của Chúa Giêsu Kitô với người khác là một phận sự trọng đại của tất cả những ai đă lănh nhận tặng ân đức tin. Trong Thông Điệp Sứ Mệnh Đấng Cứu Chuộc Redemptoris Missio (đoạn 11), Tôi đă viết là ‘Giáo Hội, cũng như mọi người Kitô hữu trong Giáo Hội, không dược cất dấu hay độc quyền chiếm giữ những ǵ  mới mẻ và phong phú họ đă lănh nhận từ ḷng lành Thiên Chúa này mà không truyền đạt cho toàn thể loài người’. Cũng trong Bức Thông Điệp (cùng đoạn) này, Tôi c̣n viết: ‘Những ai được liên kết trong Giáo Hội Công Giáo phải cảm nhận được đặc ân của ḿnh, và chính v́ lư do đó, họ càng phải có trách nhiệm làm chứng cho đức tin cũng như cho đời sống Kitô Giáo, như là việc họ phục vụ anh chị em ḿnh và như việc họ đáp trả Thiên Chúa cách xứng đáng’ (cùng đoạn).

 

Sâu xa thâm tín như thế, Các Nghị Phụ Thượng Hội cũng nhận thức được trách nhiệm riêng của ḿnh, nhờ việc học hỏi, nguyện cầu và suy nghĩ, để có thể nắm vững chân lư vượt thời gian của Chúa Giêsu, nhờ đó các ngài mang quyền lực và sinh lực của chân lư ra giải quyết những thách đố hiện tại cũng như tương lai của việc truyền bá phúc âm hóa ở Á Châu.

 

 

ĐỨC GIÊSU KITÔ,

VỊ THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI PHỤC VỤ

 

11-       Các Sách Thánh chứng thực là Chúa Giêsu đă sống một đời sống nhân loại thực sự. Chúa Giêsu, Đấng chúng ta loan truyền là Đấng Cứu Thế duy nhất, đă bước đi trên trái đất này như là một Vị Thiên Chúa Làm Người bằng tất cả những ǵ Người có nơi bản tính loài người. Người giống như chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Được sinh ra bởi Người Mẹ Trinh Nguyên nơi những hoàn cảnh thấp hèn ở Bêlem, Người đă trở thành một hài nhi bất lực giống như các hài nhi khác, thậm chí c̣n phải chịu cảnh tị nạn để chạy thoát cho khỏi cơn thịnh nộ của một vị thủ lănh hung tợn (x. Mt 2:13-15). Người đă tuân phục cha mẹ trần gian của ḿnh, những vị không phải lúc nào cũng hiểu được đường lối của Người, nhưng Người vẫn tin tưởng các vị và thảo hiếu vâng phục các vị (x. Lk 2:41-52). Liên lỉ nguyện cầu, Người sống thân mật với Thiên Chúa, Đấng Người thân thưa bằng tiếng Abba, ‘Cha ơi’, trước ngỡ ngàng của thành phần thính giả (x. Jn 8:34-59).

 

Người gần gũi với người nghèo, với người bị bỏ quên và thấp hèn, tuyên bố rằng họ là những người thực sự có phúc, v́ Thiên Chúa ở cùng họ. Người đă ăn uống với những người tội lỗi, cam đoan với họ rằng nơi bàn tiệc của Cha Người cũng đă có chỗ cho họ, một khi họ bỏ những đường lối tội lỗi mà trở về với Ngài. Chạm đến người ô uế và để họ chạm đến ḿnh, Người cho họ nhận thấy được việc Thiên Chúa gần gũi họ. Người khóc thương một người bạn của ḿnh qua đời, Người đă hồi sinh đứa con trai của một bà mẹ góa, Người đă tiếp đón trẻ em, và Người đă rửa chân cho các môn đệ của Người. Ḷng cảm thương thần linh chưa bao giờ lại trở nên trực nghiệm dễ dàng quá như vậy.

 

Tất cả những người bị bệnh hoạn, khập khễnh, không thấy, không nghe, không nói đều cảm được tác động đụng chạm chữa trị và thứ tha của Người. Người đă chọn một nhóm dị  thường làm bạn đường và làm cộng tác viên thân cận nhất của ḿnh, trong đó có thành phần đánh cá lẫn thu thuế, thành phần Nhiệt Thành cực đoan cùng với người ít hiểu biết về Lề Luật, cả thành phần phụ nữ nữa. Một gia đ́nh mới đă được thành h́nh trong ḷng Chúa Cha yêu thương ôm ấp tất cả mọi người một cách lạ lùng. Chúa Giêsu giảng dạy đơn sơ, dùng những thí dụ trong đời sống hằng ngày để nói về t́nh yêu của Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài; và dân chúng nh́n nhận là Người đă nói một cách có uy quyền.

 

Thế mà, Người đă bị tố cáo là một kẻ lộng ngôn, một kẻ vi phạm Luật thánh, một tên đầu xỏ quần chúng cần phải được khử trừ. Sau cuộc xử án căn cứ vào chứng cớ gian trá (x. Mk 14:56), Người đă bị kết án tử h́nh như một tử tội trên Thập Giá, rồi bị bỏ rơi và nhục nhă, Người như đă bại cuộc. Người được chôn táng một cách vội vàng trong một ngôi mộ mượn đỡ. Thế nhưng, sau cái chết này, vào ngày thứ ba, cho dù có các lính canh gác, người ta đă không c̣n thấy Người trong ngôi mồ nữa. Thế rồi phục sinh từ trong kẻ chết, Chúa Giêsu đă hiện ra với các môn đệ của Người, trước khi về cùng Chúa Cha là Đấng đă sai Người đến.

 

Đối với tất cả mọi Kitô hữu, chúng ta đều tin rằng cuộc sống đặc biệt ấy, một đàng th́ rất b́nh thường và giản dị, đàng khác lại hết sức lạ lùng và kín nhiệm, đă đem Vương Quốc của Thiên Chúa vào lịch sử loài người, và ‘đă dùng quyền lực của vương quốc này tác dụng trên mọi phương diện của cuộc sống con người cũng như của xă hội bị tội lỗi và sự chết vây hăm’ (Relatio post disceptationem, đoạn 3). Bằng lời nói và việc làm, nhất là bằng cuộc khổ nạn, tử giá và phục sinh của ḿnh, Chúa Giêsu đă làm trọn ư Cha Người muốn trong việc ḥa giải toàn thể nhân loại với chính Ngài, sau khi nguyên tội đă làm lũng đoạn mối liên hệ giữa Tạo Hóa và tạo vật. Trên Thập Giá, Người đă tự mang lấy tội lỗi của thế gian – quá khứ, hiện tại cũng như tương lai. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, v́ tội lỗi của ḿnh, chúng ta đă chết đi, và cái chết của Người đă mang lại cho chúng ta sự sống một lần nữa: ‘Thiên Chúa đă làm (cho chúng ta) được sống với Người, khi thứ tha cho chúng ta tất cả những ǵ chúng ta đă vấp phạm, tháo cởi cái ràng buộc chúng ta với những đ̣i hỏi theo pháp lư; Ngài đă loại trừ nó đi, đóng đanh nó vào thập giá’ (Col 2:13-14). Nhờ đó, ơn cứu độ đă được niêm ấn một lần vĩnh viễn. Chúa Giêsu mới là Đấng Cứu Thế đúng nghĩa nhất của chúng ta, v́ lời nói và việc làm của Người, nhất là v́ việc Người phục sinh từ trong kẻ chết, đă tỏ cho thấy rằng Người là Con Thiên Chúa, là Lời từ muôn thuở, Đấng muôn đời hiển trị với tư cách là Chúa và là Đấng Thiên Sai.

 

 

BẢN THÂN VÀ SỨ MỆNH CỦA CON THIÊN CHÚA

 

12-       ‘Cái gương mù’ của Kitô giáo là tin rằng Vị Thiên Chúa toàn thiện, toàn năng và toàn tri cũng là Đấng tự mặc lấy bản tính loài người của chúng ta để chịu khổ đau và chết đi hầu mang lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người (x. 1Cor 1:23). Đức tin chúng ta đă lănh nhận tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô đă mạc khải cho thấy và đă hoàn thành ư định Chúa Cha muốn cứu độ thế gian và toàn thể nhân loại, bởi v́ ‘Ngài là Đấng hiện hữu’ cũng như bởi v́ ‘những ǵ Ngài làm là do Ngài hiện hữu’. ‘Ngài là Đấng hiện hữu’ và ‘những ǵ Ngài làm’ chỉ chiếm được trọn ư nghĩa của ḿnh trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà thôi. Giáo Triều Tôi đă liên lỉ lưu ư tới việc nhắc nhở tín hữu về mối hiệp thông sự sống nơi Chúa Ba Ngôi, cũng như về việc hiệp nhất của Ba Ngôi trong dự án tạo dựng và cứu chuộc. Những Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần Redemptor Hominis, Thông Điệp Giầu Ḷng Thương Xót Dives Misericordia, Thông Điệp Là Chúa và Là Đấng Ban Sự Sống Dominum et Vivificantem, là những suy tư nghiêm cẩn về Ngôi Con, Ngôi Cha và Ngôi Thánh Thần, cũng như về vai tṛ của các Ngôi trong dự án cựu độ thần linh. Tuy nhiên, chúng ta không thể biệt lập hay tách rời Ngôi này khỏi các Ngôi kia, v́ mỗi một Ngôi chỉ được tỏ ra cho thấy trong mối hiệp thông sự sống và hoạt động của Ba Ngôi mà thôi. Tác động cứu độ của Chúa Giêsu được bắt nguồn từ mối hiệp thông Thần Tính và là một tác động cứu độ mở đường cho tất cả những ai tin vào Người có thể đạt được niềm hiệp thông thân mật với Ba Ngôi cũng như với nhau trong Ba Ngôi.

 

‘Ai thấy Thày là thấy Cha’, Chúa Giêsu đă tuyên bố như vậy (Jn 14:9). Toàn thể Thiên Chúa được hiện thân qua thể xác chỉ có ở nơi một ḿnh Chúa Giêsu Kitô mà thôi (x. Col 2:9), khiến cho Người trở nên Lời cứu độ độc nhất vô nhị và tuyệt đối của Thiên Chúa (x. Heb 1:1-4). Là Lời thật sự của Cha, Chúa Giêsu làm cho Thiên Chúa và ư muốn cứu độ của Ngài được nhận biết bằng một đường lối khả dĩ hoàn toàn nhất. ‘Không ai đến được với Cha mà không qua Thày’, Chúa Giêsu đă nói lên như thế (Jn 14:6). Người là ‘Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống’ (Jn 14:6), v́, như chính Người phán: ‘Cha ở trong Thày là Đấng đă làm công việc của Ngài’ (Jn 14:10). Chỉ ở nơi một ḿnh bản thân Chúa Giêsu mà lời cứu độ của Thiên Chúa loan báo trong thời sau hết này (x. Heb 1:1-2) mới được thể hiện trọn vẹn nhất. Bởi thế, Thánh Phêrô mới công bố vào những ngày đầu tiên của Giáo Hội là: ‘Không có ơn cứu độ ở nơi một ai khác, v́ không có một danh hiệu nào khác dưới gầm trời này được ban cho con người để nhờ đó chúng ta được cứu độ’ (Acts 4:12).

 

Sứ mệnh của Đấng Cứu Thế đạt đến tột đỉnh của ḿnh nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua. Trên Thập Giá, khi ‘Người giang tay ra giữa trời và đất như một dấu hiệu giao ước đời đời của (Chúa Cha) (Sách Lễ Rôma, Kinh Nguyện Thánh Thể I cho các Thánh Lễ Ḥa Giải), Chúa Giêsu đă thốt lên lời cầu khẩn cuối cùng của Người với Chúa Cha để xin Cha tha tội cho nhân loại: ‘Cha ơi, xin hăy tha thứ cho họ; v́ họ không biết việc họ làm’ (Lk 23:34). Chúa Giêsu đă diệt trừ tội lỗi bằng quyền năng của t́nh yêu Người đối với Chúa Cha cũng như đối với toàn thể loài người. Người đă nhận lấy cho ḿnh các thương tích nhân loại phải chịu do tội lỗi gây ra, và Người đă làm cho họ được giải tỏa bằng việc họ ăn năn hoán cải. Những hoa trái đầu mùa của việc Người làm đă hái được một cách tỏ tường nơi người trộm thống hối cũng bị treo trên thập tự giá bên cạnh cây thập tự giá của Người (x. Lk 23:43). Lời thốt lên cuối cùng của Người là tiếng kêu của một Người Con trung thành: ‘Cha ơi, con xin phó thần trí Con trong tay Cha’ (Lk 23:46). Trong việc bộc lộ yêu thương cao cả này, Người đă kư thác tất cả cuộc sống và sứ mệnh của ḿnh cho Cha là Đấng đă sai Người. Như thế là Người đă dâng về cho Cha toàn thể tạo vật và nhân loại để được Ngài cuối cùng chấp nhận bằng một t́nh yêu thương cảm.

 

Mọi sự Con có và hoàn thành đều được Cha chấp nhận, Đấng sau đó ban phát tặng ân này cho thế giới bằng tác động phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết, và đặt Người ngự bên hữu ḿnh là nơi tội lỗi và sự chết không c̣n làm ǵ được nữa. Nhờ Hy Tế Vượt Qua của Chúa Giêsu, Cha nhất định cống hiến cho thế giới ơn giao ḥa và sự sống viên trọn. Tặng ân phi thường này chỉ có được nơi Người Con yêu dấu là Đấng duy nhất có thể đáp ứng trọn vẹn t́nh yêu của Chúa Cha, một t́nh yêu bị tội lỗi ruồng bỏ. Nơi Chúa Giêsu Kitô, bằng quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa không xa vời, trổi vượt và cách biệt con người, trái lại, rất gần gũi, nói đúng hơn, thật sự nên một với mọi người cũng như với toàn thể nhân loại trong tất cả mọi hoàn cảnh của con người. Đây là sứ điệp Kitô Giáo cống hiến cho thế giới, và sứ điệp này là nguồn an ủi, nguồn hy vọng khôn sánh cho tất cả mọi người tin tưởng.

 

 

CHÚA GIÊSU KITÔ:

MỘT SỰ THẬT VỀ LOÀI NGƯỜI

 

13-       Nhân tính của Chúa Giêsu và mầu nhiệm Nhập Thể không thể xóa mờ của Người Con Chúa Cha đă chiếu sáng trên thân phận con người bằng cách nào? Con Thiên Chúa Nhập Thể chẳng những hoàn toàn mạc khải cho thấy Chúa Cha cùng với dự án cứu độ của Cha; Người c̣n ‘hoàn toàn mạc khải cho con người thấy bản thân của con người’ (Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần Redemptor Hominis, đoạn 10) nữa. Những lời nói và việc làm, nhất là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người, tỏ ra cho thấy ư nghĩa sâu xa về việc làm người ra sao. Nhờ Chúa Giêsu, cuối cùng con người đă có thể biết được sự thật về chính bản thân ḿnh. Đời sống làm người trọn hảo của Chúa Giêsu, một đời sống hoàn toàn hiến thân cho việc yêu thương và phục vụ Chúa Cha và con người, đă mạc khải cho thấy rằng ơn gọi của mọi người là nhận lănh yêu thương để rồi lại đem yêu thương hiến tặng. Chúng ta lạ lùng về khả năng bất tận của con tim nhân loại nơi Chúa Giêsu trong việc yêu thương Thiên Chúa và con người, cho dù có phải chịu nhiều đau khổ đi nữa. Chúa Giêsu đă đặc biệt dùng Thập Giá để phá vỡ quyền lực tự hủy hoại ḿnh trong việc chống cưỡng yêu thương do tội gây ra nơi chúng ta. Về phần ḿnh, Chúa Cha đă đáp lại bằng việc phục sinh Chúa Giêsu để Người làm trưởng tử của tất cả những ai được tiền định nên giống h́nh ảnh Con của Ngài (x. Rm 8:29). Vào lúc ấy, Chúa Giêsu đă trở nên, một lần vĩnh viễn, vừa là mạc khải vừa là hoàn thành một nhân loại được tái tạo và được đổi mới theo đúng như dự án của Thiên Chúa. Bởi vậy, nơi Chúa Giêsu, chúng ta khám phá ra tầm vóc cao cả và phẩm vị của mỗi một con người trong ḷng Thiên Chúa, Đấng đă dựng nên con người theo h́nh ảnh Ngài (x. Gn 1:26), và chúng ta cũng t́m thấy mạch nguồn của cuộc tân tạo chúng ta đă được hưởng nhờ ơn Người.

 

Công Đồng Chung Vaticanô II dạy rằng, ‘bằng việc Nhập Thể của ḿnh, Người, Con Thiên Chúa, đă liên kết ḿnh với từng người một cách nào đó’ (Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng Gaudium et Spes, đoạn 22). Theo cái nh́n sâu xa này, các Nghị Phụ của Thượng Hội Giám Mục Á Châu đă thấy được nguồn hy vọng và sức mạnh tối hậu cho dân Á Châu nơi những đối chọi và bất ổn của họ. Khi những con người nam nữ lấy đức tin sống động đáp lại việc Thiên Chúa cống hiến t́nh yêu của Ngài cho họ, th́ việc hiện diện của Ngài sẽ mang lại cho họ yêu thương và b́nh an, biến đổi từ đáy ḷng của họ. Trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần Redemptor Hominis Tôi đă viết rằng, ‘việc cứu chuộc thế giới – mầu nhiệm yêu thương mănh liệt làm đổi mới tạo vật này – tự căn gốc sâu nhất của ḿnh, đó là mức độ trọn vẹn của đức công chính nơi Trái Tim nhân loại – Trái Tim của Người Con Trưởng Tử – để trở thành đức công chính nơi trái tim của nhiều con người được tiền định từ đời đời nơi Người Con Trưởng Tử, trong việc họ được trở nên con cái Thiên Chúa, được mời gọi hưởng ân sủng, được mời gọi yêu thương’ (đoạn 9).

 

Như thế, sứ mệnh của Chúa Giêsu chẳng những phục hồi mối hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại; sứ mệnh của Người c̣n thiết lập một mối hiệp thông mới nơi con người xa cách nhau v́ tội lỗi. Chúa Giêsu đă làm cho người ta có thể thắng vượt tất cả mọi chia rẽ để sống như anh chị em với nhau, nh́n nhận một Người Cha duy nhất ở trên trời (x. Mt 23:9). Nơi Người phát hiện một mối hợp ḥa mới, trong đó ‘không c̣n là Do Thái hay Hy Lạp... nô lệ hay tự do... nam nhân hay nữ giới, v́ tất cả anh em chỉ là một trong Chúa Giêsu Kitô’ (Gal 3:28). Chúa Giêsu là b́nh an của chúng ta, Đấng đă làm cho cả hai chúng ta nên một, và đă phá đổ bức tường hận thù chia rẽ nhau’ (Eph 2:14). Trong tất cả mọi lời nói và việc làm, Chúa Giêsu là tiếng nói của Chúa Cha, là bàn tay và là cánh tay của Chúa Cha, trong việc qui tụ tất cả mọi con cái của Thiên Chúa lại để làm nên một gia đ́nh yêu thương. Người đă cầu xin để các môn đệ của Người cũng được sống hiệp thông như Người hiệp thông với Chúa Cha (x. Jn 17:11). Trong những lời cuối cùng của Người, chúng ta nghe thấy Người nói: ‘Như Cha đă sai yêu Thày thế nào, Thày cũng yêu các con như vậy; các con hăy ở lại trong t́nh yêu của Thày... Đây là giới răn của Thày, đó là các con hăy yêu thương nhau như Thày đă yêu thương các con’ (Jn 15:9,12). Được Vị Thiên Chúa hiệp thông sai đi, và chính ḿnh thực sự cũng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Chúa Giêsu đă thiết lập mối hiệp thông giữa trời và đất nơi chính bản thân của Người. Chúng ta tin tưởng làø ‘trong Người, tất cả tầm vóc viên măn của Thiên Chúa thỏa thuê ngự trị, và nhờ Người, Thiên Chúa ḥa giải tất cả mọi sự với chính ḿnh Ngài, những sự dưới đất cũng như trên trời, ḥa giải bằng máu Thập Giá của Người’ (Col 1:19-20). Ơn cứu độ có thể được t́m thấy nơi bản thân của Con Thiên Chúa làm người, cũng như nơi sứ mệnh được ủy thác cho một ḿnh Người với tư cách là Con, một sứ mệnh phục vụ và yêu thương đối với sự sống của tất cả mọi người. Cùng với Giáo Hội khắp thế giới, Giáo Hội Tại Á Châu hăy loan báo chân lư đức tin là ‘Có một Thiên Chúa duy nhất và một trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là con người Đức Giêsu Kitô, Đấng đă hiến ḿnh làm giá chuộc cho tất cả mọi người’ (1Tim 2:5-6). 

 

DUY NHẤT TÍNH VÀ PHỔ QUÁT TÍNH CỦA ƠN CỨU ĐỘ TRONG CHÚA GIÊSU

 

14-       Các Nghị Phụ của Thượng Hội Giám Mục Á Châu nhắc lại rằng, Lời từ muôn thuở, Người Con Thiên Chúa sinh ra từ đời đời, ‘đă hiện diện nơi tạo thành, nơi lịch sử và nơi mọi nỗi khát vọng thiện hảo của con người’ (Relatio post disceptationem, đoạn 3). Thế gian hiện hữu là nhờ Lời ấy, Lời hiện diện nơi vũ trụ ngay cả trước khi Nhập Thể (x. Jn 1:1-4, 10; Col 1:15-20). Thế nhưng, là Lời nhập thể, Đấng đă sống động, chết đi và phục sinh từ trong kẻ chết, Chúa Giêsu Kitô nay đang được loan truyền như một tầm vóc viên trọn của tất cả mọi tạo vật, của toàn thể lịch sử cũng như của tất cả mọi khát vọng nơi con người hướng về sự sống viên măn’ (Relatio post disceptationem, đoạn 3). Nơi Người, ‘các giá trị đích thực của tất cả mọi truyền thống về đạo giáo và văn hóa, như t́nh thương và việc thuận phục ư muốn của Thiên Chúa, như ḷng thương cảm và đức liêm khiết, như việc bất bạo động và đức công chính, như ḷng thảo hiếu của con cái và sống thái ḥa với thiên nhiên, đều đạt đến tầm vóc viên trọn và hiện thực của ḿnh’ (cùng nguồn vừa dẫn). Chúa Giêsu là Đấng Trung Gian phổ quát duy nhất, từ giây phút đầu tiên của thời gian cho đến tận cùng thời gian. Thậm chí đối với cả những người không minh nhiên tuyên xưng đức tin công nhận Người là Đấng Cứu Thế, th́ ơn cứu chuộc cũng vẫn là một ân sủng do Chúa Giêsu Kitô mà có, qua việc truyền thông của Chúa Thánh Thần.

 

Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và con người thật, là Đấng Cứu Thế duy nhất, v́ chỉ có một ḿnh Người, Người Con, đă hoàn thành dự án cứu độ phổ quát của Chúa Cha. Là một biểu lộ tối hậu của mầu nhiệm Chúa Cha yêu thương đối với tất cả mọi người, Chúa Giêsu thực sự là Đấng độc nhất vô nhị, và ‘chính v́ tính cách độc nhất vô nhị này của Chúa Kitô đă làm cho Người đóng một vai tṛ quan trọng trên hết và phổ quát, bởi đó, trong khi thuộc về lịch sử, Người vẫn là chính tâm điểm và là đích điểm của lịch sử’ (Thông Điệp Sứ Mệnh Đấng Cứu Chuộc Redemptoris Missio, đoạn 6).

 

Không một cá nhân nào, không một quốc gia nào, không một văn hóa nào lại không được phép kêu nại đến Chúa Giêsu, Đấng nói với họ từ cốt lơi của thân phận con người. ‘Chính đời sống của Người đă nói, nhân tính của Người, việc Người trung thành với chân lư, t́nh Người yêu thương ôm ấp tất cả mọi người đă nói. Ngoài ra, cái chết của Người trên Thập Giá – tức là mức độ sâu thẳm khôn ḍ của việc Người chịu khổ và bị bỏ rơi – cũng đă nói’ (Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Thế Redemptor Hominis, đoạn 7). Chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong bản tính nhân loại của Người, các dân tộc Á Châu t́m thấy giải đáp cho những vấn nạn sâu xa nhất của ḿnh, t́m thấy trọn vẹn những ǵ ḿnh hy vọng, t́m thấy phẩm giá của ḿnh được thăng hoa và thắng vượt được thất vọng. Chúa Giêsu là Tin Mừng cho con người nam nữ của mọi thời điểm và mọi nơi chốn, trong việc họ t́m kiếm ư nghĩa cuộc đời và t́m kiếm sự thật về nhân tính của họ”.

 

 

(Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia in Asia:

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/11/1999, trang IV-V)