Mầm Mống
Thần Linh:
Nơi Khổng
Giáo
K |
hổng
giáo có thể nói được là nhịp cầu bắc từ
Phật giáo sang Công giáo. Thực vậy, v́ một phương
diện th́ Trung Hoa thường cho rằng Nho Thích Lăo là đồng
nguyên, là nhất tŕ, c̣n một phương diện khác th́
Khổng giáo có rất nhiều điểm tương đồng
với Công giáo.
Trung
hoa từ thời Hoàng đế (khoảng 2650 trước
Kỷ Nguyên) đă tôn thờ Thượng đế,
Nghiêu Thuấn Vơ, Thang, Văn,
Vũ đều tôn sùng Thượng đế và hơn thế
nữa c̣n tin rằng Trời chẳng xa người.
Trong
trận Mục Dă trước khi giao tranh với đại
quân vua Trụ, để cho ba quân hứng khởi, Vơ Vương
đă kêu:
Thượng đế ở
cùng ta đó,
Ba quân hăy vững ḷng vững
dạ.
(Thượng đế lâm nhĩ,
vô nhị nhĩ tâm
- Kinh
Thi, Đại Nhă Văn Vương)
Như trên ta đă thấy Phật
giáo cho rằng sau lớp vọng tâm biến thiên, c̣n có Chân
tâm vĩnh cửu trường tồn, bất biến, bất
định.
Nghiên cứu đời sống
đức Khổng, ta cũng ư thức được rằng
Ngài tin tưởng tâm hồn ta có hai phần:
1.
Một phần cao
minh linh diệu như Trời, đó là đạo tâm
trong Kinh Thư (Kinh Thư, Đại Vũ mô), đó là
Thiên Mệnh, là Tính, là Minh Đức,
là ánh sáng trời cao cả chiếu soi ḷng ḿnh, là lương
tâm, lương tri theo từ ngữ Vương Dương
Minh.
2.
Một phần là ḿnh
nhỏ nhoi, hèn mọn, cần phải được uốn
nắn, đẽo gọt, đó là nhân tâm nghiêng ngửa
của Kinh Thư (Nhân tâm duy nguy).
Tin
tưởng trong tâm hồn con người c̣n có trời ngự
trị, nên người quân tử trong đạo Nho lúc nào
cũng trang nghiêm kính cẩn. Ra khỏi nhà th́ trang trọng
như đón khách qúi, tiếp xúc với người th́ kính
cẩn như đang hành lễ, (xuất môn như kiến đại
tân, sử dân như thừa đại tế - Luận Ngữ, XII, 2), càng ở nơi vắng vẻ
một ḿnh lại càng ư tứ đối với đấng
ḿnh không thấy, lo sợ đối với đấng ḿnh
không nghe thấy, v́ càng kín càng tỏ, càng nhỏ càng rơ trước
con mắt lương tâm. Thế tức là:
‘Nhân gian tu ngũ, Thiên văn
như lôi,
Ám thất khuy tâm, thần mục
như diện’.
Người quân tử chỉ
hơn người, nếu ḍ xét ḷng ḿnh mà không phải ngượng
ngùng v́ những tư tưởng hoen ố, hơn người
ở những hành vi không ai mục kích. (Xem Trung Dung I và
XXXIII).
Các thánh hiền đạo Nho
ước mong được nên như vẻ sáng của
Thượng Đế. Vua Văn sở dĩ gọi là Văn
Vương, v́ Ngài đức độ siêu việt, nên như
vẻ sáng của Thượng Đế. Sau này Khổng Tử
khi bị vây ở đất khuông cũng xưng ḿnh là vẻ
sáng của Thượng Đế (Luận Ngữ. IX, 5).
Quan
niệm Trời chẳng xa người, đă hiện diện
ngay trong tâm khảm con người là một quan niệm
then chốt của Khổng giáo. Trung Dung đă dùng cả chương
thứ XVI để chứng minh điều ấy. Đó
cũng là niềm tin tưởng của Thánh hiền Trung
Hoa tự xa xưa đă được ghi trong Kinh Thi:
‘Trái Tây Bắc góc nhà thanh vắng,
Đừng làm chi đáng để
hổ ngươi.
Đừng rằng tăm tối
chơi vơi,
Đừng rằng tăm tối
ai người thấy ta.
Thần giáng lâm ai mà hay biết,
Nên dám đâu khinh miệt dể
ngươi’.
(Kinh Thi, Đại
Nhă Úc Thiên)
Nho
giáo c̣n chủ trương rằng Luật Trời cũng
chẳng hề ĺa xa con người.
Kinh
Thi viết:
‘Trời sinh ra khắp muôn
dân,
Vật nào phép nấy định
phân rành rành.
Ḷng dân chứa sẵn căn
lành,
Nên ưa những cái tinh thành đẹp
tươi’
(Kinh Thư Chung dân)
V́
hiểu sự tương quan mật thiết giữa Trời
và Người, v́ nhận định ra rằng Trời chẳng
xa người, mà đă ngự trị ngay trong tâm hồn
con người, rằng Luật Trời chẳng có xa con người
mà đă được ghi tạc ngay trong lương tâm
con người, đức Khổng liền thấy ngay ư
nghĩa và mục đích đời người.
Mục đích đời người
là tu thân, theo tiếng lương tâm, tiến tới hoàn thiện,
để kết hợp với Trời (cố viết phối
Thiên, Trung Dung XXXI), giáo hóa người khác nên hoàn
hảo (Phu
tử chi đạo Trung thứ nhi dĩ hỉ, Luận Ngữ
IV, 15).
Trung
Dung viết:
‘Trời đă phú cho con người
tính trời, đạo làm người là noi theo tính Trơêi
đó, tôn giáo là phương pháp thi hành đạo đó’. (Trung Dung I)
Đại
Học viết:
‘Tôn chỉ sách Đại học
là làm bừng sáng ngọn đuốc lương tâm, cải
tạo muôn dân và chỉ ngừng nơi mức chí thiện’.
Lư
do là v́:
‘Hoàn thiện là đạo
Trời; trở nên hoàn thiện là đạo người’
(Thành
giả Thiên chi đạo dă, thành chi giả nhân chi đạo
dă –
Trung Dung XX).
Đó là đạo cao siêu của
đức Khổng và lư tưởng đời Ngài là dạy
dân chân lư đó...
Phật cũng dạy phải
diệt cái thân ngă ḿnh, rứt hết mọi t́nh quyến
luyến, mọi dây ràng buộc tâm hồn vào vật thụ
sinh hư ảo vọng huyễn, vô thường, để
trở về cùng Chân Như không sinh không diệt (Léon Wieger, Histore
des croyances religieuses et des opinions philogophiques en chine depuis L’Origine
jusqu à nos jours, p. 549-550).
Đạo Lăo cũng coi thường
mọi sự đời cho là phù vân hư ảo, muốn
thanh tĩnh vô vi để kết hợp với Trời với
Đạo trong tâm hồn ḿnh; đó chính là mục đích của
các công cuộc tham thiền nhập định...
Đức Khổng cho rằng
muốn tiến tới hoàn thiện cần phải thực
thi ba đại đức: Nhân, Trí, Dũng.
Muốn
thêm Nhân, chúng
ta cần phải làm lành, lánh dữ, cần phải làm tṛn
nhiệm vụ trong mọi chức vụ ta giữ trong đời,
và phải áp dụng định luật Trung Thứ tức
là phải biết suy bụng ta ra bụng người, và lấy
đó làm phương châm tiếp nhân xử thế.
Muốn thêm Trí ta phải học hỏi suy
tư suốt đời ta.
Muốn thêm Dũng, ta phải có óc đua tranh,
phải luôn luôn cố gắng tiến tới một đời
sống hoàn hảo.
Trung
Dung (XX) viết:
Hoàn toàn là đạo của
Trời,
Trở nên hoàn thiện đạo
người xưa nay.
Người hoàn thiện cất
tay là đúng,
Chẳng cần suy cũng trúng
chẳng sai.
Thung dung Trung đạo tháng
ngày,
Ấy là vị thánh từ
ngay lọt ḷng.
C̣n những kẻ cố công
nên thánh,
Gặp điều lành phải
mạnh tay co.
Ra công học hỏi thăm ḍ,
Học cho uyên bác hỏi cho tận
tường,
Đắn đo suy nghĩ kỹ
càng,
Biện minh thấu triệt
mới mang thi hành,
Đă định học chưa
thành chưa bỏ,
Đă hỏi han chưa tỏ
chưa thôi.
Đă suy suy hết khúc nhôi,
Chưa ra manh mối chưa rời
xét suy,
Biện luận măi tới khi
vỡ lẽ,
Chưa rơ ràng không thể bỏ
qua,
Đă làm làm tới tinh hoa.
Tinh hoa chưa đạt việc
ta c̣n làm.
Đức
Khổng tuy dạy con người phải tu tâm dưỡng
tính, tu sửa tâm hồn ḿnh để tiến tới hoàn
thiện, nhưng ngài cũng không quên dạy mọi người
phải cải thiện đời sống vật chất
bên ngoài, cải thiện đời sống xă hội, để
mọi người có thể sống trong t́nh huynh đệ,
trong ḥa b́nh, an lạc thật sự.
Tóm lại đối với đức
Khổng con người phải thực hiện sự
hoàn thiện, hoàn mỹ, v́ đó là Thiên ư (Thành giả Thiên
chi đạo dă, thành chi giả nhân chi đạo giă – Trung
Dung XX)”.
(Phần Mầm
Mống Thần Linh nơi Khổng Giáo trên đây
được trích
từ Những Điểm Tương Đồng giữa
Phật, Khổng và Công Giáo,
của Bs Nguyễn
Văn Thọ, Công Giáo Tiến Hành Xuân Lộc, 1971, trang 8-20)
Sau khi đă nắm chắc được
rằng: Lương tâm con người là Bản
Tính, là Đạo, là Trời, là Thái Hư, là Thiên địa
chi tính, là gương mẫu hoàng thiện, c̣n tư tâm
là ‘khí chất chi tính’, có thanh có trọc khác nhau, có hay có dở
khác nhau, Nho gia liền ra công: Noi theo lương tâm, cải
hóa tư tâm.
Công phu này Nho gia gọi là Chính
tâm: Làm cho tâm hồn trở nên ngay thẳng, hay là Hàm Dưỡng,
hay là Tồn Tâm, Dưỡng Tính.
Chung qui chỉ là Biến
hoá cái ‘khí chất chi tính’ theo từ ngữ của Trương
Hoành Cừ...
Luận Ngữ chủ trương:
Khắc kỷ, phục lễ. Thế tức là con
người phải theo thiên lư, mà sửa nhân t́nh; theo lương
tâm mà sửa tư tâm. Như vậy là Nhân đức.
(Khắc
kỷ phục lễ vi nhân – Luận Ngữ XII, I).
Công Đô Tử hỏi Mạnh
Tử: ‘Cũng đều là người, nhưng tại
sao có người ra đại nhân, có kẻ hóa
ra tiểu nhân?’ Mạnh Tử đáp rằng: ‘Ai
noi theo cái đại thể của ḿnh th́ là bậc đại
nhân, ai noi theo cái tiểu thể của ḿnh, th́ là kẻ tiểu
nhân’ (Mạnh
Tử, Cáo Tử chương cú thượng, 15)
Đối với Mạnh Tử
th́ ngũ quan là phần tiểu thể, c̣n tâm hồn
là phần đại thể. Cái bụng cái miệng
là phần tiểu thể, c̣n cái phần tinh thần là phần
đại thể...