“Thông
điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor cần
phải làm bùng lên cuộc bàn căi thần học Công giáo
thế giới về ‘luật tự nhiên’ cũng như
về mối liên hệ của nó với đức tin Kitô
giáo, liên quan đến cả bản chất lẫn mục
đích của tự do. Nó cũng phải khơi dậy
một cuộc tự phản tỉnh về mối liên
hệ giữa những ǵ các nhà thần học vẫn
dạy với những ǵ các vị linh mục và giáo lư viên đang
làm, trong nỗ lực ‘chuyển dịch’ công việc của
các thần học gia sang sinh hoạt mục vụ. Tuy
nhiên, phản ứng đối với bức thông điệp
từ quá nhiều các thần học gia luân lư được
đánh dấu bằng việc bàn ra (đôi khi lại c̣n
bàn ra một cách khinh khi nữa) hơn là bàn vào một cách
nghiêm chỉnh dứt khoát. Các nhà b́nh luận Công giáo
thậm chí cũng không thể làm cho ḿnh thừa
nhận những ǵ được một số nhà dẫn
giải Tin Lành sẵn sàng công nhận: đó là Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đă can đảm dám đảm
nhận một loạt các vấn đề quan trọng
nhất đối với nền văn hóa của một
xă hội tự do. Thái độ thiếu nhận thức
này nơi những b́nh luận gia Công giáo cho thấy t́nh
trạng ṭ ṃ một cách mù quáng nơi những người
muốn kiến tạo nên các thứ thần học theo
kiểu dấu chỉ thời đại.
“Theo
ngôn từ chung th́ vấn đề nan giải của con người
được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đề
cập đến trong bức thông điệp Rạng Ngời
Chân Lư Veritatis Splendor là một vấn đề nan giải
cổ xưa, mặc dầu nó đă trở nên tệ
hơn trước bởi cơn khủng hoảng của
niềm tin tưởng vào khả năng con người
trong việc nhận biết chân lư nơi bất cứ
một sự ǵ: Làm sao để có thể sống tự
do để không hủy diệt chính tự do? Thông điệp
Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor là một phác họa
cho một thế giới thời hậu Chiến Tranh
Lạnh nói chung, trong đó, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
chẳng những không t́m cách hạ giá các quyền tự do
vừa mới chiếm lại hay được bênh
vực một cách thành quả tốt đẹp, đă
cố gắng tái nối kết tự do với sự
thiện của việc con người thăng hoa. Bức
thông điệp là một văn kiện bênh vực tự
do, bởi chính v́ tự do mà văn hóa về luân lư của
một xă hội tự do và đạo hạnh phải canh
chừng để cho tự do khỏi bị tự
diệt.
“Thông
điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor cũng là
một phần thuộc chương tŕnh toàn diện của
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong việc áp dụng
thực hành Công Đồng Chung Vaticanô II. Bức thông điệp
tiếp nối sứ vụ của Sắc Lệnh Đào
Luyện Linh Mục trong việc khai triển khoa thần
học luân lư của Giáo Hội, và đă thực hiện
việc khai triển này bằng một phương pháp được
nhiều nghị phụ thần học gia nổi tiếng
của Công Đồng gợi ư, đó là phương pháp
về nguồn, là tái khám phá những đề tài thần
học có nền tảng trong Thánh Kinh, một nền
thần học của các thế kỷ Kitô giáo đầu
tiên cũng như của một nền thần học kinh
viện trung cổ. Thông điệp Rạng Ngời Chân Lư
Veritatis Splendor chỉ làm công việc lấy lại này,
việc tái xác nhận quan niệm đáng tôn trọng của
tự do được liên kết với sự thật
và sự thiện, là những ǵ đă bị mất đi ở
các thế kỷ 14 và 15, bởi ảnh hưởng của
một thứ triết lư mang tên ‘chủ nghĩa danh
hiệu’, cũng là một thứ triết lư chủ trương
tự do ngang với chủ quyền. Theo chiều hướng
ấy, Thông điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis
Splendor mới là một thí dụ điển h́nh cho
thấy suốt giáo triều của ḿnh, Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II nêu lên các vấn nạn chưa được
nhắc đến ở những năm ngay sau Công Đồng
và cố gắng giải quyết nó cũng như để
xây dựng cho tương lai. Mặc dầu thế, cũng
không được coi Thông điệp Rạng Ngời Chân
Lư Veritatis Splendor như là một văn kiện chỉ
biết sửa chữa những ǵ đă sai quấy trong quá
khứ vừa qua. Những ǵ bức thông điệp này
muốn sửa chữa ‘vươn tới’ nhiều
thế kỷ trước và nhắm đến việc
nuôi dưỡng một khoa thần học luân lư mới
trong tương lai. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho
rằng khoa luân lư thần học Công giáo phải trở
lại trước cả thế kỷ 14 để
sửa soạn cho thế kỷ 21. Thế giới tân
tiến, mà những lư thuyết gia của chủ nghĩa
danh hiệu thời hậu trung cổ cũng như sau đó
là phong trào Minh Tri đă chủ trương cho rằng
tự do là một quyền tự chủ, cần đến
khoa luân lư thần học Công giáo này.
“Thông
điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor mở màn
bằng cuộc đối thoại giữa con người
trẻ giầu có và Chúa Kitô, rồi kết thúc bằng
việc suy niệm về lời bảo của Thánh Phaolô
gửi cho tín hữu Galata – đó là Chúa Kitô ‘đă
giải thoát cho chúng ta được tự do’ (Gal 5:1)
– không phải là việc nhồi đạo đức
vào trong bức thông điệp ‘thực sự’ này. Hai
phần mở và kết ấy ḥa hợp nhau nơi tư tưởng
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II về thảm
kịch quyết định luân lư. Cũng thế, ngài
nghĩ đến việc tử đạo như là
một mẫu thức cho niềm tự do linh hoạt theo
quyền lực của chân lư. ‘Tiếng nói’ phát ra từ bức
Thông điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor
chỉ là tiếng nói của một vị mục tử
tỏ ra lo sợ cho quyền năng ân sủng và chân lư mà
Giáo Hội đă lănh nhận từ thập giá của Chúa
Kitô bị trở nên vô ích. Mối quan tâm này vượt biên
giới Giáo Hội Công giáo và cộng đồng Kitô giáo tới
những con người nam nữ đang đối
chọi với các đ̣i hỏi của tự do, với đ̣i
hỏi của những ǵ thuộc niềm xác tín của đạo
giáo họ. Nơi thông điệp Rạng Ngời Chân Lư
Veritatis Splendor Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đă nói với
hết mọi người muốn chọn tuyệt
hảo chứ không phải chọn ư đồ lợi lộc
trong việc thực thi quyền tự do của ḿnh. Ngài
nói như vậy v́ tin tưởng rằng việc chọn
lựa sự thiện, chứ không phải chỉ chọn
‘theo đường lối của ḿnh’, là dấu chỉ
cho một nhân loại đích thực”.
Nếu
Thông Điệp “Rạng Ngời Chân Lư” như “ánh sáng
sự sống” phát ra từ chính Huấn Quyền của
Giáo Hội là “một thành xây trên núi không thể khuất được
nữa (Mt
5:14), th́ “ánh sáng
sự sống” này cũng đă được phản ánh
chói lọi nơi Các Cuộc Họp Quốc Tế về
Gia Đ́nh và Sự Sống Con Người do Hội Đồng
Giáo Hoàng về Gia Đ́nh tổ chức (xin xem lại trang
249-260). Sau đây là
nguyên văn những niềm xác tín của chính họ và lời
họ kêu gọi thành phần Lập Pháp và Chính Trị Gia
thế giới.
Trước
hết là của Các Chính Trị Gia và Nhà Lập Pháp Mỹ
Châu nhóm họp vào ngày 6-8/1996 tại Thành Phố Mễ Tây
Cơ.
“Đối diện với
những vấn nạn và thách đố này, chúng tôi
muốn tái xác nhận một số những nguyên tắc
quan trọng hơn để soi dẫn đường
lối chúng ta đi.
1. “Chúng tôi tái công nhận
phẩm vị và giá trị bẩm sinh của hết
mọi con người được dựng nên theo h́nh
ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa nên có
khả năng yêu thương hy hiến bản thân ḿnh.
2. “Chúng tôi tái xác nhận là các
quyền lợi của con người đều do
bẩm sinh mà có, như được nêu lên trong Bản
Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền (1948)
3. “Chúng tôi tái công nhận giá
trị và tầm quan trọng hiện tại của Bản
Hiến Chương về Các Quyền Lợi của Gia Đ́nh
được Ṭa Thánh phổ biến (1983). Bởi
thế, chúng tôi tái xác nhận rằng gia đ́nh được
hưởng những quyền lợi phát xuất từ
chính căn tính của ḿnh là tế bào căn bản của
xă hội.
4. “Chúng tôi tái xác nhận
rằng gia đ́nh được làm nên bởi hôn nhân là cuộc
hiệp nhất giữa một người nam và một người
nữ để hướng đến việc truyền đạt
sự sống con người.
5. “Chúng tôi tái xác nhận
rằng tính chất bất khả phân ly của hôn nhân
giữa một người nam và một người
nữ cần phải được bảo vệ bởi
những luật lệ để phục vụ thiện
ích cho xă hội.
6. “Chúng tôi tái công nhận
quyền sống của tất cả mọi con người,
từ lúc thụ thai cho tới khi tự nhiên chết đi.
Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dạy: ‘Không ai được
đặc quyền hay được chuẩn chước
đối với qui tắc luân lư cấm việc trực
tiếp lấy mạng sống của một con người
vô tội. Dù là người nắm trong tay quyền làm chủ
thế giới hay là người nghèo nhất trong các người
nghèo trên mặt đất này th́ cả hai cũng không khác
nhau. Đối với những đ̣i buộc của luân
lư, tất cả chúng ta hoàn toàn b́nh đẳng như nhau’ (Thông Điệp Phúc
Âm Sự Sống, đoạn 57)
Những Đề Nghị
“Theo chiều hướng của
những sự thật này, chúng tôi kêu gọi những chính
trị gia và các nhà lập pháp đồng nghiệp hăy đối
diện với những vấn nạn nơi các quốc
gia của chúng ta, và để đạt mục đích
này, chúng tôi xin nêu lên những đề nghị sau đây.
1- “Chúng tôi yêu cầu các chính
trị gia và các nhà lập pháp hăy thực hiện một
nỗ lực bao quát quốc tế hướng chiều
về sự sống con người. Chúng tôi đề
nghị nên h́nh thành một nhóm nghị viên ở hết
mọi quốc gia thuộc lục địa của chúng
ta để bênh vực sự sống và gia đ́nh. Ngoài ra,
chúng tôi cũng đề nghị là những nhóm này hăy cùng
nhau hoạt động qua một cơ cấu điều
hợp Liên Mỹ Châu, nối kết với Hội Đồng
Giáo Hoàng về Gia Đ́nh.
2- “Chúng tôi yêu cầu luật
lệ hăy tái nhận thức lại vai tṛ của ḿnh trong
việc bênh vực hết mọi sự sống của con
người, nhất là của những người
yếu đuối và nghèo khổ nhất. Chúng tôi đề
nghị hăy thực hiện việc giáo dục về
luật tự nhiên, một thứ luật căn bản
cho các quyền lợi phổ quát của con người, đầu
tiên là quyền sống, nhờ đó nó mới thực
sự là nền tảng cho chủ nghĩa dân chủ.
Phải dạy đầy đủ toàn bộ học
thuyết xă hội của Giáo Hội, với tất
cả những điều cần thiết liên quan đến
việc phù sinh và gia đ́nh, nơi các trường học,
các đại học cộng đồng, các đại
học toàn khoa cũng như nơi các học viện cao
cấp. Điều này bao gồm cả việc liên tục
dạy tại các học đường ấy các vấn đề
về luân lư hợp với Huấn Quyền.
3- “Chúng tôi yêu cầu hăy
triệt để tuân giữ và áp dụng những qui
tắc thuộc hiến và luật pháp vẫn c̣n hiệu
lực nơi nhiều quốc gia chúng ta trong việc
bảo vệ các quyền lợi của thai nhi. Chúng tôi
khích lệ việc cổ vơ để ư thức được
những luật lệ này, cũng như để
tỉnh táo biết được những nỗ lực
về phía các chính trị gia và các nhà lập pháp trong
việc họ muốn làm suy giảm đi những
luật lệ này, bằng việc họ làm ngơ cho
việc phá thai bất hợp pháp xẩy ra, hay bằng
việc thực hiện mà không bị luật pháp trừng
trị, hoặc bằng việc đề xướng lên
những quyền lợi không chân chính.
4- “Chúng tôi yêu cầu hăy thực
hiện việc trợ giúp phù sinh cho những người
phụ nữ đang muốn phá thai hay những người
đă phá thai. Chúng tôi đề nghị là phải lập
thêm các trung tâm phù sinh cho nữ giới, và phải ủng hộ
cũng như nâng đỡ những trung tâm đang
hoạt động.
5-
“Chúng tôi yêu cầu
phải bảo vệ hợp pháp cho những thai nhi từ
lúc thụ thai. Chúng tôi đề nghị ban hành những
khoản luật dứt khoát phù sinh đối với
việc thử thai và cấy giống. Chúng tôi hoan hô lời
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi các chuyên gia
luật pháp và các vị lănh đạo chính quyền trong
việc công nhận và bênh vực ‘các quyền tự nhiên của
chính nguồn mạch sự sống con người’ (Diễn Từ
ngỏ với Hội Nghị về Thông Điệp Phúc Âm
Sự Sống và Luật Pháp, ngày 24/5/1996, đoạn 6:
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 29/5/1996, trang 12).
6- “Chúng tôi yêu cầu thực
hiện t́nh trạng công b́nh về kinh tế cho các gia đ́nh,
để ‘vốn liếng nhân bản’ không thể thay
thế của gia đ́nh được phát triển, không
bị Chính Quyền kiểm soát một cách thiếu chính đáng
và không bị các qui chế của xă hội gây tổn
hại. Chúng tôi đề nghị lập ra những qui định
đặc biệt về gia đ́nh ở mọi quốc
gia, không phải chỉ là những qui định thuần
túy về xă hội mà c̣n nêu lên cả những phương
thức để phục hồi trọn vẹn vai tṛ
tự nhiên của gia đ́nh trong lănh vực kinh tế và
phát triển cho lợi ích chung.
7- “Chúng tôi yêu cầu những
qui định đặc biệt về gia đ́nh hăy
cống hiến cho nữ giới những điều
kiện cụ thể để dung ḥa vai tṛ làm mẹ của
họ với những ước vọng về chuyên môn cũng
như về học vấn của họ. Chúng tôi đề
nghị hăy thực hiện những bước tiến để
đạt được điều này, nhất là trong
lănh vực về tài chính.
8- “Chúng tôi yêu cầu hăy công
nhận vai tṛ giáo dục không thể thay thế của gia đ́nh.
Chúng tôi đề nghị hăy lập những khoản
luật thuận lợi cho cha mẹ, nhất là những
cha mẹ nghèo, trong việc tự do chọn trường
học.
9- “Chúng tôi yêu cầu hăy công
nhận quyền của phụ huynh trong việc cung cấp
‘vấn đề dạy dỗ chính đáng con cái ḿnh
về dục tính và yêu đương’ (Thông Điệp Phúc
Âm Sự Sống, đoạn 97). Chúng tôi đề nghị hăy cổ vơ
học hỏi bản văn mới được Hội
Đồng Giáo Hoàng về Gia Đ́nh phổ biến là Sự
Thật và Ư Nghĩa về Tính Dục Con Người, Những
Hướng Dẫn cho Việc Giáo Dục trong Gia Đ́nh.
10- “Chúng
tôi yêu cầu các phương tiện truyền thông xă hội
hăy có trách nhiệm về vấn đề luân lư hơn
nữa. Chúng tôi đề nghị hăy thiết lập hay
kiên cố các cơ cấu tổ chức giúp cho việc
dễ dàng thực thi trách nhiệm về nghề
nghiệp.
11- “Chúng
tôi yêu cầu hăy thực hiện một cuộc thẩm định
về thực tại dân số ở Mỹ Châu thực
sự theo đường lối khoa học, không bị
chi phối bởi chiều hướng ư hệ hay tư lợi.
Chúng tôi đề nghị đặc biệt bảo vệ
thành phần di dân bằng luật pháp và các qui chế chính đáng.
12- “Chúng
tôi yêu cầu hăy chấm dứt ‘đế quốc ngừa
thai’ để kiểm soát dân số bằng việc cổ
vơ phá thai, chặn thai và ngừa thai. Chúng tôi khích lệ vai
tṛ trách nhiệm của phụ huynh, được hỗ
trợ bằng cách phát động hết sức rộng
răi những phương pháp tân thời trong vấn đề
ngừa thai tự nhiên, những phương pháp theo khoa
học chắc chắn đạt được hay hoăn được
việc thụ thai khi có những lư do chính đáng.
13- “Chúng
tôi yêu cầu hăy đối xử công bằng và yêu thương
đối với mỗi một con trẻ, thành phần là
phúc lành Thiên Chúa ban. Chúng tôi đề nghị hăy lập ra
những khoản luật mới để bảo vệ
quyền lợi và an sinh của trẻ em, nhất là
những em trở thành nạn nhân của công việc khai
thác lao động, măi dâm hay khiêu dâm.
14- “Chúng
tôi xin các cơ quan có uy thế hăy làm cho sự sống và gia
đ́nh trở thành đề tại chính ở Thượng
Hội Giám Mục Mỹ Châu tới đây.
“Sau hết, chúng tôi kêu gọi
những chính trị gia, những nhà lập pháp và tất
cả mọi con người nam nữ có thiện chí hăy
liên hợp với chúng tôi trong việc chiến đấu
cho sự sống và gia đ́nh. Một lần nữa, chúng
tôi nhất định dấn thân cho lư tưởng cao
cả này. Chúng tôi tin tưởng rằng sẽ có một tương
lai sáng sủa hơn, bởi thế chúng tôi xin phó thác
tất cả mọi hoạt động của chúng tôi cho
sự sống và gia đ́nh ở trong tay Thiên Chúa là Chúa của
Sự Sống và là Đấng Tạo Dựng của gia đ́nh”.
(tuần san L’O
sservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 10/7/1996)
Tiếp
theo là của Các Chính Trị Gia và Nhà Lập Pháp Mỹ Châu
nhóm họp vào ngày 22-24/10/1998 tại Vatican lời kêu gọi
“Hăy Uûng Hộ Và Nâng Đỡ Gia Đ́nh”
4.1
“Là những chính trị gia và nhà lập pháp trung thành với
Bản Tuyên Ngôn Chung, chúng tôi nhất định
dấn thân cổ vơ và bênh vực các quyền lợi của
gia đ́nh là cơ cấu được thành h́nh bởi
hôn nhân giữa một người nam và một người
nữ. Điều này cần phải thực hiện ở
tất cả mọi cấp độ: địa phương,
miền vùng, quốc gia cũng như quốc tế.
Chỉ có thế chúng ta mới có thể thực sự là
những người tôi tớ phục vụ cho công ích,
cả ở cấp độ quốc gia cũng như
quốc tế. Chúng tôi muốn chú trọng đến ở
đây những điều chúng tôi tin là thuộc về
số những vấn đề khẩn trương đối
với các chính trị gia và các nhà lập pháp của ngày hôm
nay đây.
4.2
“Theo Bản Tuyên Ngôn Chung, luật pháp của Âu Châu đă
nh́n nhận hôn nhân là một cơ cấu tự nhiên được
đi liền với những ràng buộc về luật
pháp. Hôn nhân làm nên gia đ́nh, v́ nó thiết lập một
mối hiệp nhất vững chắc trong việc hiến
thân cho nhau giữa một người nam và một người
nữ, hướng về một t́nh yêu hỗ tương,
về việc truyền sinh và dưỡng dục con cái. Đó
là cơ cấu hôn nhân xă hội cần phải được
bênh vực như là một giá trị chi phối cả tương
lai của xă hội. Việc thừa nhận những
kiểu hiệp nhất khác là ‘hôn nhân’, như một
số người hiện nay cho rằng như thế mới
không tỏ ra kỳ thị, hay ban cho những cuộc
hiệp nhất này các quyền lợi hay thuận lợi tương
đương trong xă hội như ban cho những người
thành hôn chính đáng, sẽ làm bại hoại cơ cấu
hôn nhân cùng với đời sống gia đ́nh.
4.3
“Giáo Hội nh́n nhận rằng, Giáo Hội đang bênh
vực xă hội và thiện ích thực sự của con người
bằng việc ủng hộ, cổ vơ và bênh vực cơ
cấu tự nhiên của hôn nhân được Chúa Kitô nâng
lên phẩm vị của một bí tích Tân Luật.
4.4
“Gia đ́nh có ‘trước’ Chính Quyền và cần thiết
hơn chính quyền, như Arsitote nói (Nicomachean Ethics, III, 12, 18). Gia đ́nh ‘trước
hết... muốn căn tính của ḿnh được nh́n
nhận và muốn vị trí là chủ thể của nó trong
xă hội phải được chấp nhận’, nó là
‘một chủ thể hơn bất cứ một
cơ cấu tổ chức xă hội nào khác’, như Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II nhấn mạnh trong Bức Thư
gửi Các Gia Đ́nh, Gratissimam sane (các đoạn 15
và 17). Điều
này có nghĩa là phải tôn trọng quyền tự
quyết và ngay cả ‘chủ quyền’ của gia đ́nh.
4.5
“Những mối liên hệ giữa gia đ́nh và xă hội
phải được dựa vào việc tôn trọng nguyên
tắc phụ thuộc. Thật vậy, gia đ́nh là
nguồn mạch tự nhiên cho việc giáo dục và phát
triển nhân bản. Gia đ́nh là một cơ cấu có
khả năng đào luyện con người trọn
vẹn và làm cho họ phát triển về nhân tính. Hơn
nữa, gia đ́nh c̣n cung cấp việc chăm sóc và t́nh
trạng an toàn cho những phần tử yếu hèn
nhất trong xă hội, như trẻ em, người già, người
tật nguyền và người yếu bệnh kinh niên. Gia đ́nh
bảo vệ những ai bị tổn thương
nhất v́ cuộc sống bơ vơ lạc lơng ngoài
lề xă hội.
4.6
“Pháp luật và qui chế của xă hội cần phải
bảo vệ vai tṛ của các người mẹ.
Nữ giới phải được tự do trong
phận sự làm mẹ và không bị áp lực kinh tế
hay xă hội bó buộc phải làm việc ở ngoài nhà. Làm
việc ở nhà cũng phải được công
nhận như là một hoạt động kinh tế
thực sự và thiết yếu góp phần vào các phúc lợi.
Chúng tôi hoan hô những chính trị gia và các nhà lập pháp Âu
Châu đă tranh đấu để cổ vơ quyền lợi
cho vai tṛ làm mẹ, bằng những luật pháp chính đáng
cũng như bằng qui chế xă hội tốt lành. Chúng
tôi kêu gọi tất cả đồng nghiệp của chúng
tôi hăy cùng nhau cứu xét những ǵ có thể thực
hiện để tạo điều kiện cho nữ giới
thi hành công việc đào luyện thế hệ tương
lai không thể châm chước của họ, mà không
ngăn trở việc họ tham dự một cách b́nh đẳng
vào sinh hoạt xă hội, trong công xưởng hay trên chính trường.
4.7
“Những sự kiện cho thấy việc khủng
hoảng về dân số đang tác dụng trên Âu Châu
ngày nay. Mức độ thụ thai thấp hơn mức độ
bù trừ ở nhiều xứ sở khác nhau, đang làm giới
già tăng lên nhanh chóng, sẽ gây ra những nạn xă hội
và kinh tế trong tương lai. Nếu trẻ em là kho tàng
của các quốc gia th́ Âu Châu ngày nay đang bị nghèo nàn
hết cỡ! Cần phải tăng thêm ḷng tin tưởng
vào tương lai và việc đầu tư vào các thế
hệ mai sau phải được thế chỗ cho
việc t́m kiếm vị kỷ, t́m kiếm những lợi
lộc ngắn hạn. Gia đ́nh là một yếu tố
quan trọng nhất cho việc phát triển sau này, v́ nó là một
cộng đồng, nơi sản xuất ra vốn
liếng nhân bản về tất cả mọi chiều
kích của nó. Cần phải tu chính luật pháp nào không
hỗ trợ hôn nhân và việc sinh sản hữu trách qua
việc hỗ trợ nuôi con tại gia. Cần phải thay
đổi luật thu thuế không thuận lợi cho các đôi
vợ chồng có con cái.
4.8
Chúng tôi hoan hô tất cả mọi người nam nữ
mang trách nhiệm chính trị và những nhà lập pháp ở
Âu Châu, thành phần dấn thân cho việc loan truyền
và bênh vực sự sống, rất thường thấy
xẩy ra trong những cuộc khủng hoảng về ư
niệm và trong t́nh trạng bị mất đi các giá
trị. Họ cố gắng hoạt động để
bảo vệ những quyền bẩm sinh của thành
phần hèn kém nhất trong xă hội, như thai nhi, người
già và người tật nguyền. Cần phải đặc
biệt chú trọng tới vấn đề bảo vệ
bào thai khỏi những cuộc thử nghiệm và lạm
dụng. Chúng tôi lập lại việc chúng tôi quyết tâm
bênh vực quyền sống căn bản được
Bản Tuyên Ngôn Chung xác nhận ở khoản 3.
4.9
“Chúng tôi kêu gọi các chính trị gia và các nhà lập pháp đồng
nghiệp của chúng tôi hăy nh́n nhận vai tṛ sư
phạm của luật pháp liên quan đến việc nó
ảnh hưởng đến đời sống gia đ́nh.
Các thứ luật pháp làm suy yếu gia đ́nh gây nên một
ư hệ hoang mang và lầm lẫn về vai tṛ của nó.
Những qui chế về xă hội và kinh tế kỳ
thị gia đ́nh làm phát sinh ra t́nh trạng đâm ra coi thường
quyền lợi và an sinh của gia đ́nh. Luật pháp thiên
về phá thai và ly dị đưa đến t́nh trạng
càng ngày càng khinh bỉ sự sống con người và
những mối liên hệ bền vững của gia đ́nh.
4.10
“Chúng tôi kêu gọi các chính trị gia và các nhà lập pháp đồng
nghiệp của chúng tôi hăy nh́n nhận và cổ vơ vai tṛ
giáo dục không thể thay thế được của
gia đ́nh trong việc đào luyện những người
công dân mai hậu cho một xă hội dân chủ thực
sự. Thật vậy, chính ở trong gia đ́nh mà người
ta trước hết biết phục vụ cho công ích. Gia đ́nh
có thể được diễn tả như là một
học đường về văn minh, tự do, đoàn
kết và yêu thương.
4.11
“Nhiều tham dự viên của Hội Nghị của chúng
tôi thi hành công việc của ḿnh trong những quốc gia ở
Đông Âu, nơi mà người ta mang một ấn tượng
là những xứ sở này không thể hoàn toàn trở nên
những phần tử của Hiệp Hội Châu Âu, trừ
phi họ chấp nhận một số chương tŕnh
về luân lư mờ ám. Phương tiện truyền thông xă
hội cho thấy rơ ấn tượng này. Các Kitô hữu
và những người thiện chí khác tỏ ra chống
lại những mục tiêu này đều bị cho là
chống lại việc gia nhập Khối Âu Châu. Nhân danh
phẩm vị, chủ quyền và ḷng trung thành với lư tưởng
dân chủ của ḿnh, các quốc gia này có quyền cùng với
trách nhiệm nắm giữ và bênh vực văn hóa sự
sống, cũng như bảo vệ gia đ́nh cùng với
quyền lợi của gia đ́nh nơi ‘ngôi nhà chung của
Âu Châu’ sau này.
4.12 “Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong dịp mừng 20 năm giữ vai
tṛ Thừa Kế Thánh Phêrô, đă mănh liệt và rơ ràng thúc đẩy
hoạt động cho lợi ích của gia đ́nh và
sự sống, như là một người bênh vực Chân
Lư và là một người mang đến niềm hy
vọng. Buổi triều yết Ngài dành cho chúng tôi và
những lời Ngài ngỏ với chúng tôi làm cho chúng tôi
hết sức phấn khởi.
4.13
“Chúng tôi kêu gọi tất cả mọi vị đồng
nghiệp của chúng tôi hăy tổ chức những cuộc
họp để suy nghĩ và trao đổi tương
tự như cuộc họp này. Chúng tôi muốn tham dự
vào những khởi xướng ấy nơi các quốc
gia xứ sở khác nhau. Chúng tôi xác tín rằng, tất
cả mọi nỗ lực kiên tŕ để bênh vực các
quyền lợi của con người cũng như các
quyền lợi của gia đ́nh sẽ là một mầm
mống hy vọng cho tương lai của các đất nước
chúng ta và của toàn khối Âu Châu. Bất chấp những
thách đố hiện thời đối với các
quyền lợi của con người và của gia đ́nh,
chúng tôi vẫn hy vọng hướng tới một Âu Châu,
nơi gia đ́nh có thể thăng hoa cũng là nơi
sự sống con người được đón
nhận và yêu thương”.
(tuần san L’O
sservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 20/1/1999)
Thông
Điệp “Rạng Ngời Chân Lư” thực sự đă được
phản quang rực rỡ như “ánh sáng sự sống”
chẳng những nơi hai Cuộc Họp Quốc Tế
về Gia Đ́nh và Sự Sống Con Người do Hội
Đồng Ṭa Thánh về Gia Đ́nh tổ chức, qua các
“yêu cầu” chân chính của Các Chính Trị Gia và Nhà Lập
Pháp Mỹ Châu trên đây, mà c̣n nơi cả các ba Cuộc
Họp (1993,
1995, 2000) giữa Các
Học Viện về Hôn Nhân và Gia Đ́nh với Các Trung Tâm
Đạo Đức Sinh Vật Học nữa, cũng do
Hội Đồng Ṭa Thánh về Gia Đ́nh tổ chức,
với sự cộng tác của Hội Đồng Ṭa Thánh
về Trợ Giúp Mục Vụ cho Các Cán Sự Y Tế và của
Khoa Viện Ṭa Thánh về Sự Sống, qua các nhận định
và đề nghị hết sức chính đáng, như của
cuộc họp lần thứ ba sau đây:
T́nh
trạng:
“Trong 25 năm qua, ở một số xứ sở theo
văn hóa Tây Phương, hôn nhân và gia đ́nh, cái nôi của
sự sống con người, đă trở thành mục
tiêu của một liên ư hệ lạ thường muốn
biến đổi lề luật về gia đ́nh. Hai thí dụ
điển h́nh nhất về việc biến đổi
này là các khoản luật phá thai và việc khai phóng những
lư do ly dị…” (đoạn 7)
Nhận
định:
“T́nh trạng thiếu vắng một khoa nhân loại
học có nền tảng siêu h́nh cần thiết đă gây
nên một ư hệ về ngôn ngữ mập mờ và
lấp lửng, một thứ ngôn ngữ đă được
đưa vào các văn kiện pháp lư khiến cho ư nghĩa
của các giá trị xă hội bị lẫn lộn và coi thường.
Chẳng hạn như người ta nói đến ‘các
mẫu gia đ́nh’, ‘trước khi có bầu’, ‘kế
hoạch sinh sản’, ‘thu hẹp bào thai’, ‘sản lực’,
‘giúp tự tử’, ‘quyền truyền sinh’, ‘sự sống
bất xứng’, ‘phụ truyền sinh’, ‘sự sống
lầm lỡ’, ‘tính chất sự sống’, ‘tự do tính dục’
và ‘cái chết xứng đáng’”. (đoạn 8.1)
T́nh
trạng: “Tính
dục có khuynh hướng được tŕnh bày như
là một giải pháp hoàn toàn thực tiễn hơn như
là một chiều kích của sự sống con người
theo ư nghĩa hiệp nhất và truyền sinh (Thông Điệp
Phúc Âm Sự Sống, đoạn 12). Về phương diện thực hành,
con người không coi sinh hoạt tính dục như là
việc con người tự ban tặng ḿnh cho nhau được
thể hiện trong giới hạn của đời
sống hôn nhân, hơn là một giải pháp thuộc về
những ǵ khác nhau mà tác hành tính dục có thể thực
hiện. Quan niệm sai lầm về tính dục và mối
tương hợp nam nữ này rất thường được
thấy nơi các chương tŕnh giáo dục chỉ
thuần túy dựa trên việc dạy cho biết một thứ
kiến thức chẳng có phân biệt ǵ cả, chứ
không dựa vào việc đào luyện cá nhân con người
sống theo nhân đức và hiến thân cho nhau”. (đoạn
9.1)
Nhận
định: “Việc
huấn luyện về bản chất tính dục có
thể bị dung ḥa nghiêm trọng bởi những áp dụng
đặc biệt theo một số thái độ của
ư hệ hướng chiều về ‘giống đực
giống cái’ của phái tính, một thái độ hướng
đến việc làm cho hôn nhân hoàn toàn trở thành một
h́nh thức tác hành theo dục tính mà thôi, chứ không để
ư ǵ đến tính cách tương hợp giữa nam và
nữ, đến hoa trái theo ư định của Tạo
Hóa là việc hiến thân cho nhau và sinh sản con cái. Theo thái
độ này th́ hôn nhân chỉ là một mẫu tác hành được
đóng khung theo văn hóa đă từng diễn tiến ở
một giai đoạn lịch sử nào đó, nhưng ngày
nay đang rơi vào t́nh trạng bị lạm dụng v́ cuộc
tiến hóa ‘bất khả kháng’ về phong tục tập
quán…” (đoạn 9.2)
Giải
quyết chung:
“Bởi thế, khoa nhân loại học về phương
diện triết lư và thần học mới là cốt lơi
nơi các chương tŕnh huấn luyện của chúng tôi,
một chương tŕnh huấn luyện phải nhấn
mạnh đến việc ưu tiên của hữu thể
hơn là của ư nghĩ, đến việc quan niệm
con người như là một chủ thể có hồn
thiêng lẫn xác chất và là đích điểm của
tất cả mọi hoạt động, chứ không bao giờ
lại là phương tiện cho một mục tiêu nào khác
(Đức
Gioan Phaolô II, Thư gửi Gia Đ́nh, 12). Vai tṛ chủ thể nơi
con người không chỉ lệ thuộc vào lương
tâm và tự do của họ, mà bao gồm toàn thể
bản vị duy nhất có cả hồn lẫn xác của
họ”. (đoạn 6.1)
Nếu
nền “văn hóa tử vong” ngày nay là dấu chứng
tỏ cho thấy loài người văn minh hiện đại
đang băng hoại như cá (x. Lk 5:10) bị ươn, th́ cũng
là dấu chứng tỏ muối Kitô hữu (x. Mt 5:13) đă ra nhạt! Tuy nhiên, v́
Chúa Kitô chưa tới, t́nh h́nh vẫn có thể cứu văn.
Ở chỗ, cho dù (x. Mt 25:6-9)
các cây đèn đức tin nơi nhiều cô phù dâu Kitô
hữu Âu Châu có tắt mất ngọn lửa đức
mến v́ thiếu dầu đức cậy, th́ Giáo Hội
vẫn có thể kịp thời đổ dầu vào đèn
cho họ, bằng việc tân truyền bá phúc âm hóa, nhất
định hướng đến: “Chúa Giêsu Kitô vẫn
sống nơi Giáo Hội là Nguồn Hy Vọng cho Âu Châu”
(chủ
đề Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă chọn cho
Thượng Hội Giám Mục Âu Châu lần hai, 1-23/10/1999).
Chính v́ ư thức được
vị thế và vai tṛ của ḿnh là “đèn đă được
đặt trên cao để soi sáng cho cả nhà” (Mt 5:15), bằng không cả gia đ́nh nhân
loại sẽ “ngồi trong tối tăm và bóng tối
sự chết” (Lk 1:79),
mà Giáo Hôïi đă ư thức, tuyên nhận và phác họa như
sau:
· “Ánh
sáng muôn dân chính là Chúa Kitô, nên Thánh Công Đồng đang nhóm
họp trong Chúa Thánh Thần hết ḷng mong ước soi
dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa được
phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội bằng việc rao
truyềøn Phúc Âm cho mọi tạo vật (x. Mk 16:15)”. (Hiến Chế Ánh
Sáng Muôn Dân Lumen Gentium, đoạn 1)