Vậy vấn đề chính
yếu trong việc truyền giáo ở đây không phải
là vấn đề Chúa Kitô phải có một dung nhan Á Châu,
một bộ phục Việt Nam th́ dân Á Châu và dân Việt
Nam mới dễ chấp nhận Người, cho bằng
vấn đề vị thừa sai phải làm sao cho dân Á
Châu và dân Việt Nam thấy rằng Chúa Kitô là của
mọi người và cho mọi người, một Chúa
Kitô “công giáo”, một Chúa Kitô phổ quát, một Chúa Kitô
quốc tế, v́ Chúa Kitô tử giá đă hoàn toàn trần
trụi không c̣n bộ phục Do Thái nữa, một Chúa Kitô
ở trong t́nh trạng công chính nguyên thủy, thời điểm
con người c̣n thuần nhất “trần truồng song
không biết xấu hổ” (Gen
2:25). Nếu Chúa Kitô
Phục Sinh là nội dung của Tin Mừng Cứu Độ
mà các vị tông đồ phải “là những chứng nhân
của Thày cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8), th́ Chúa Kitô Tử Giá chính là bản
chất của Tin Mừng Cứu Độ cần
phải được rao giảng:
·
“Phải, các
người Do Thái th́ đ̣i ‘dấu lạ’ c̣n các
người Hy Lạp th́ t́m kiếm ‘khôn ngoan’, nhưng chúng
tôi lại rao giảng Chúa Kitô tử giá, một cớ
vấp phạm cho những người Do Thái và là một
thứ điên rồ cho các Dân Ngoại; thế nhưng, đối
với những ai được kêu gọi, th́ dù Do Thái hay
Hy Lạp, Chúa Kitô cũng là quyền năng của Thiên Chúa
và là khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cor 1:22-24).
Đúng thế, “những ai
được kêu gọi” đây chính là thành phần
“chiên của Tôi th́ nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng
theo Tôi” (Jn
·
“Thày ban cho các con
một giới răn mới, đó là các con hăy yêu
thương nhau. Thày đă yêu thương các con thế nào,
các con cũng hăy thương yêu nhau như vậy. Việc
các con yêu thương nhau sẽ làm cho tất cả mọi
người nhận ra các con là môn đệ của
Thày” (Jn
Bởi thế, như đă đề
cập đến, vấn đề then chốt ở
đây là một khi Kitô hữu chúng ta đến được
với người ngoài Kitô giáo, bằng tinh thần bác ái
trọn lành, phục vụ hoàn toàn vô tư và vị tha, th́
Chúa Kitô tử giá, Đấng hoàn toàn trần trụi
của chúng ta, không c̣n mặc y phục của bất
cứ dân nước nào nữa, “không c̣n phân biệt
giữa Do Thái hay Hy Lạp” (Rm 10:12), cũng sẽ được con
người “chấp nhận” (Jn 1:12) thực sự là Vị
Cứu Thế duy nhất của họ, tức là “Đấng
trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người”
(1Tim 2:5).
Vậy th́, Kitô hữu chúng ta,
về phương diện thừa sai, một khi luôn
luôn tuân theo tác động của Thánh Linh là tác nhân chính
yếu trong công cuộc truyền giáo (xem Tông Huấn
“Giáo Hội Tại Á Châu”, 18.3),
thực sự chính là ngưỡng cửa hy vọng
của việc truyền bá phúc âm hóa và cho việc truyền
bá phúc âm hóa. Tông Thư “Giáo Hội Tại Á Châu” (đoạn 23.2) cũng đă xác nhận theo
chiều hướng này:
·
“Hoàn toàn thâm tín được
tầm quan trọng của thành phần chứng nhân đích
thực trong công cuộc truyền giáo tại Á Châu, Các
Nghị Phụ của Thượng Hội này đă phát
biểu là: ‘Tin Mừng về Chúa Giêsu Kitô chỉ có thể được
loan báo nơi những ai bị chiếm đoạt và tác động
bởi t́nh yêu của Chúa Cha đối với con cái Ngài,
một t́nh yêu bộc lộ nơi con người của
Chúa Giêsu Kitô. Việc loan báo này là một sứ vụ
cần đến những con người nam nữ thánh
thiện, thành phần làm cho Chúa Cứu Thế được
nhận biết và yêu mến bằng đời sống
của họ. Một ngọn lửa chỉ có thể được
thắp lên bởi những ǵ tự nó cháy lửa. Cũng
thế, việc loan báo Tin Mừng cứu độ mang
lại thành quả ở Á Châu cũng chỉ có thể
xẩy ra một khi bản thân các vị Giám Mục, giáo
sĩ, những ai sống đời tận hiến tu tŕ,
và giáo dân cháy lửa yêu mến Chúa Kitô và bừng nóng ḷng
nhiệt thành muốn làm cho Người được
nhận biết rộng răi hơn nữa, làm cho
Người được yêu mến sâu đậm hơn
nữa và làm cho Người được noi gương
bắt chước hoàn toàn hơn nữa’ (Proposito, 8)”.
Nhưng, để cơi ḷng
có thể bừng nóng và bắt lửa truyền giáo như
thế, văn kiện Hậu Thượng Hội Giám
Mục Á Châu này nói chung, trong đó có đề cập
tới kinh nghiệm của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
nói riêng, c̣n cẩn thận nhắc nhở mọi Kitô
hữu, nhất là Kitô hữu chính thức đóng vai tṛ thừa
sai những điều tối quan yếu như sau:
·
“Truyền giáo là
tác động chiêm niệm và là một việc chiêm
niệm hoạt động. Bởi thế, một nhà
truyền giáo không sâu xa cảm nghiệm Thiên Chúa bằng đời
sống cầu nguyện và chiêm niệm sẽ gặt hái được
rất ít ảnh hưởng thiêng liêng hay thành công trong
việc truyền giáo. Cái nh́n sáng suốt này phát xuất từ
thừa tác vụ linh mục của riêng Tôi, và như Tôi
cũng đă viết trước đây, việc Tôi có
dịp gặp gỡ giao tiếp với các đại
diện của các truyền thống ngoài Kitô Giáo, nhất
là các truyền thống ấy ở Á Châu, đă làm Tôi xác
nhận quan niệm là tương lai của việc
truyền giáo phần lớn tùy thuộc vào việc chiêm
niệm. Ở Á Châu, gia cư của các tôn giáo lớn có
những người và có cả khối những dân
tộc khao khát thần linh, Giáo Hội được kêu
gọi trở thành một Giáo Hội nguyện cầu, sâu
xa sống tâm linh, cho dù có phải dấn thân lo đến
vấn đề nhân bản và xă hội đi chăng
nữa. Tất cả mọi Kitô hữu cần phải
sống linh đạo cầu nguyện và chiêm niệm
thực sự trong công cuộc truyền giáo. (Bởi v́) Ở Á Châu, một con
người sùng đạo chân chính vốn được
trọng kính và có một hấp lực. Việc cầu
nguyện, chay tịnh và các h́nh thức khổ chế khác
cũng được coi trọng. Việc từ bỏ,
sống thanh thoát, khiêm nhu, đơn thành và trầm lặng
đều được tín đồ của tất
cả mọi tôn giáo coi là những giá trị cao quí”.
(Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn “Giáo Hội Tại Á Châu”,
đoạn 23.1 và
23.2, L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/11/1999, trang
VII)
CHÚA KITÔ TOÀN CẦU, ĐẤNG
CỨU THẾ DUY NHẤT
C |
hớ ǵ các bộ óc Tôma Á
Châu, bộ óc Tôma Việt Nam cũng có cả một cơi
ḷng Têrêsa Calcutta tràn đầy đức ái nữa, để
có thể thốt lên như chính vị Thánh Tiến Sĩ
Thiên Thần khi cơi ḷng của ngài bị cháy nóng, đến
nỗi ngài không thể hoàn thành bộ Tổng Luận
Thần Học đồ sộ vô tiền khoáng hậu của
ḿnh nữa, như chính ngài thú nhận:
·
“Các công cuộc
khó nhọc của tôi tới đây là chấm dứt.
Tất cả những ǵ tôi đă viết ra chẳng khác ǵ
như rơm rạ so với những ǵ tôi được
mạc khải cho thấy”.
(Butler’s Lives of
The Saints, complete edition, Vol I,
Christian Classics,
Westminster, Maryland, 1988, p. 511)
Chớ ǵ, mỗi Kitô hữu
Việt Nam hết sức nỗ lực trong việc
mỗi năm chỉ cần làm cho một người
ngoại trở lại với Chúa Kitô, th́ chiến dịch
“Thập Niên 10 Người Trở Lại” sẽ được
hoàn tất tốt đẹp, ở chỗ, vào năm 2010,
toàn thể nước Việt Nam sẽ trở thành
“một đàn chiên theo một chủ chiên” (Jn 10:16). Chỉ cần mỗi
một nước Á Châu có một cơi ḷng Têrêsa Calcutta
thôi, ngàn năm thứ ba Kitô Giáo sẽ là ngàn năm của Á
Châu, đúng như viễn quan của Tông Huấn “Giáo
Hội Tại Á Châu” ở ngay đoạn mở đầu
(1.2):
·
“Như ngàn năm
thứ nhất Thập Giá đă được trồng
ở mảnh đất Âu Châu, và ngàn năm thứ hai
ở Mỹ Châu cũng như Phi Châu thế nào, th́ chúng ta
hăy cầu xin cho ngàn năm thứ ba trở thành mùa gặt đức
tin dồi dào nơi đại lục rộng lớn và
sinh động này cũng như vậy ”
(Lời ĐTC
Gioan Phaolô II ngỏ lời cùng Hội Nghị Lần Sáu
của Các Hội Đồng Giám Mục Á Châu, 15/1/1995, đoạn
11: Insegnamenti XVIII, 1/1995, 159)
Đúng thế, để được
như vậy, Kitô hữu Á Châu/Việt Nam chúng ta phải
sống Thần Học Á Châu/Việt Nam. Ở chỗ,
nếu Thần Học Á Châu, Thần Học Việt Nam
chẳng qua là việc làm sao để đồng hóa Chúa
Kitô với bộ mặt Á Châu, với bộ phục
Việt Nam, và nếu tự nơi cơi ḷng của chung
các dân tộc Á Châu và riêng Việt Nam đă có sẵn căn
bản Thần Học Á Châu, Thần Học Việt Nam, qua
những mầm mồng thần linh trong các đạo giáo
hay văn chương b́nh dân của họ, tức có
khả năng của thành phần chiên nghe được
tiếng chủ chiên của họ, th́ với một
bộ mặt thuần túy Á Châu, bộ phục hoàn toàn
Việt Nam của ḿnh, Kitô hữu Á Châu/Việt Nam chúng ta,
thực sự là chính Chân Dung Chúa Kitô Á Châu/Việt Nam trung
thực nhất, sống động nhất để làm
chứng cho Người, chẳng những tại Á Châu,
tại Việt Nam, mà c̣n tại bất cứ nơi nào
nữa trên thế giới trong một thời điểm
riêng Kitô giáo ở Âu Châu và Bắc Mỹ đang bị phá
sản khủng khiếp, cũng là một thời điểm
văn hóa nhân bản chân chính của chung nhân loại đang
bị tan hoang trên khắp thế giới hiện nay.
Bởi v́: “Chúa Kitô vẫn thế hôm qua, hôm nay và muôn đời”
(Heb 13:8).
Có người sẽ lật
ngược lại vấn đề như sau:
Trước hết, nếu đức ái là ngôn ngữ
quốc tế, là cách tốt nhất để Kitô hữu
chẳng những có thể đến gần người
ngoài Kitô giáo, hay thu hút người ngoại giáo đến
với ḿnh, mà c̣n chiếm được cảm t́nh
của họ nữa, nhờ đó Kitô hữu mới có
thể giảng đạo cho họ, thế th́ tại sao
biết bao năm trời nay, bất cứ ở đâu có
Giáo Hội Công Giáo th́ ở đấy có những hoạt động
bác ái, như mở trường dạy học cho thanh
thiếu niên, mở nhà thương chữa trị bệnh
hoạn tật nguyền cho thân xác con người, mở
trại cùi săn sóc những người bị tật
phong, mở cô nhi viện chăm sóc các trẻ em mồ côi
cha mẹ, mở viện dục anh để cải
huấn giới trẻ bụi đời, mở viện
dưỡng lăo chăm sóc những người già cô độc
không nơi nương tựa v.v. mà kết quả gặt
hái được quá ư ít oi, phần đông những
người ngoài Kitô giáo chỉ cảm phục công cuộc
xă hội của khối Công Giáo song họ vẫn chưa
chịu trở lại, tức chưa chịu nh́n nhận
Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và
loài người!?
Thật ra vấn đề
này có nhiều lư do. Chúng ta có thể kể đến ba lư
do chính yếu sau đây, thứ nhất về tŕnh độ
truyền giáo, thứ hai về việc tăng dân số và
thứ ba về môi trường truyền giáo.
Lư do thứ nhất là tŕnh độ
truyền giáo, ở
chỗ, tinh thần chứng nhân sống động nơi
người Kitô hữu tông đồ không đủ
sức để thu hút và chinh phục người ngoài Kitô
giáo, nhất là những người cũng sống “từ
bi hỉ xả”, cũng biết “bầu ơi thương
lấy bí cùng, tuy cùng khác giống nhưng chung một giàn”,
cũng thực hành việc “lá lành đùm lá rách” v.v. Một
việc bác ái tự nó là tốt, nhưng nó vẫn có
thể trở thành một công tác hay dịch vụ
thuần túy xă hội. Đúng thế, nếu không có tinh
thần phục vụ đến tận tuyệt của
Chúa Kitô, các bệnh viện Kitô Giáo cũng chẳng khác ǵ
các nhà thương của nhà nước, các trường
học Kitô Giáo cũng không hơn ǵ các công thục hay tư
thục, các nhà dục anh của Kitô Giáo cũng giống
hệt như là các trại cải huấn thanh thiếu
niên của công quyền, các nơi nuôi trẻ em mồ côi
cũng giống như các cô nhi viện công cộng v.v.
Bởi thế mới nói: “Chỉ cần mỗi một
nước Á Châu có một cơi ḷng Têrêsa Calcutta thôi, ngàn
năm thứ ba Kitô Giáo sẽ là ngàn năm của Á Châu”
(trang 443).
Lư do thứ hai là việc
tăng dân số,
ở chỗ, theo tỉ lệ, số người Công Giáo đă
ít lại càng ít hơn. Để dễ hiểu, xin lấy
dân số Công Giáo Việt Nam hiện nay là 10% làm tỉ
dụ. Vậy, nếu không có các cuộc trở lại
ngoại lệ, mà chỉ có chuyện đi đạo theo
kiểu cha truyền con nối, và nếu việc tăng
dân số giữa gia đ́nh Việt Nam nói chung cứ
xẩy ra đều nhau, (với hai vợ chồng và
khoảng trung b́nh 5 đứa con), th́ t́nh trạng tăng
số người của 10% Công Giáo Việt Nam và 90%
của dân chúng Việt Nam ngoại giáo sẽ càng ngày càng
cách nhau xa hơn. Chẳng hạn, dân số Việt Nam
như được thông kê vào năm 2000 là 70 triệu
người, giả sử dân số Việt Nam này cứ
trong ṿng 10 năm có một con số tăng đều đặn
là 10%, th́ sẽ tăng lên đến 77 triệu vào năm
2010, đến 84.7 triệu vào năm 2020, đến 93.1
triệu vào năm 2030, đến 102.4 triệu vào năm
2040, đến 112.6 vào năm 2050, và trong số 112.6
triệu người Việt Nam vào năm 2050 này dân số
Công Giáo Việt Nam chỉ có 10.2 triệu, nghĩa là, 50
năm sau, khoảng cách giữa dân số Công Giáo và dân
số ngoại giáo Việt Nam thay v́ chỉ có 63 triệu
người như năm 2000 lại cách nhau tới 102.4
triệu. Cứ thế th́ dân số Công Giáo tại Việt
Nam càng ngày sẽ càng trở thành thiểu số, nếu
không có những cuộc trở lại đặc biệt được
phát động thành những chiến dịch truyền giáo
đại kết.
Lư do thứ hai là môi
trường truyền giáo,
ở chỗ, mảnh đất Á Châu đă có sẵn các
loại cây cổ thụ về đạo giáo. Kinh
nghiệm nhà nông cho thấy, một hạt giống chỉ
nẩy mầm và phát triển một cách dễ dàng nơi
mảnh đất tốt mà thôi, và việc trồng
cấy ở một mảnh đất hoang đầy
những cỏ dại bao giờ cũng dễ dàng hơn
là trồng cấy ở một khu rừng rậm với đầy
những gốc rễ chằng chịt. Đó là lư do
tại sao Kitô Giáo dễ nẩy mầm và phát triển
ở Âu Châu hơn ở Á Châu. Nếu muốn biến
một khu rừng rậm trở thành một cánh đồng
ph́ nhiêu mầu mỡ không phải là chuyện dễ dàng và
nhanh chóng thế nào, th́ việc truyền bá phúc âm hóa tại
Á Châu cũng vậy.
Tuy nhiên, không phải v́ Kitô
Giáo không thể làm bật rễ tín ngưỡng đă
ăn sâu chôn chặt vào ḷng dân chúng Á Châu mà Đấng
Tử Giá là Vị Cứu Thế Duy Nhất đích
thực của họ vẫn c̣n là một tử thi nằm
trong ḷng đất, chưa phục sinh ra khỏi ngôi
mồ của Người để tỏ ḿnh ra cho dân
chúng Á Châu. Chính sách truyền giáo của Kitô Giáo không phải
là cướp giật hay bóc lột như thế, trái
lại, là một cuộc hội nhập văn hóa như
việc Lời Nhập Thể, và biến đổi
văn hóa như Chúa Kitô Phục Sinh. Thật vậy,
nhờ Nhập Thể, Tử Nạn và An Táng trong ḷng đất
Chúa Kitô đă tỏ ḿnh cho thấy Người thực
sự là gốc rễ của mọi tôn giáo, là Mầm
Mống Thần Linh nơi tất cả mọi niềm tin
chân chính, là “mạch nước vọt lên sự sống đời
đời” làm thỏa măn khát vọng sâu xa nhất của
con người (Jn
4:14), nhất là con
người ngày nay, một con người đang sống
trong một thời đại văn minh vật chất
hầu như tột đỉnh song vẫn chẳng
những không thôi mà c̣n càng cảm thấy bất an và
bất hạnh hơn bao giờ hết, đến
nỗi, nhiều người trong họ đang cố
gắng t́m về cội nguồn của ḿnh, mới
nỗ lực t́m kiếm b́nh an chân thực.
Bởi thế, chính trong lúc
này đây, trong một thời điểm các đạo
giáo đang bị giải thể một cách thảm
thương khủng khiếp trên toàn cầu nơi ḷng con
người thời đại, một thời điểm
người ta tự nhiên trở nên khô đạo, hết
sức lơ là với đạo, không c̣n ngoan đạo,
sống đạo và tha thiết giữ đạo cổ
truyền của ḿnh như xưa nữa, không c̣n gắn bó
với những truyền thống đạo giáo, với
những giá trị chân truyền là những ǵ, đối
với đa số con người thời nay, đă hoàn toàn
lỗi thời trước ánh sáng chói lọi của
văn minh vật chất cũng như của văn hóa
duy nhân bản hiện đại.
Vậy th́ tại sao Kitô
hữu Việt Nam, Kitô hữu Á Châu chúng ta không lợi
dụng thời điểm hầu như ḷng người đă
trở thành “vô đạo” và “giải đạo” này để
truyền bá phúc âm hóa cho tín đồ của các đạo
giáo khác tại Á Châu và Việt Nam. Chỉ cần chúng ta
biết làm sao chứng thực cho họ cảm nghiệm được
rằng chân lư Kitô Giáo của chúng ta có “toàn quyền năng”
(Mt 28:18) cứu độ con
người, mà bản thân Kitô hữu của chúng ta là
một chứng cớ điển h́nh, một con
người Kitô hữu sống trong thế gian như
họ song vẫn không thuộc về thế gian (xem Jn 17:11, 14), không bị thế gian
tục hóa, trái lại, chúng ta chẳng những làm chủ được
thế gian mà c̣n có cả khả năng thăng hóa con
người, nhất là trong việc bảo vệ phẩm
giá cao quí của con người đang bị chính con
người hiện đại t́m cách hủy hoại
nữa.
Thật vậy, t́nh h́nh
thế giới vừa bước vào tân thiên niên kỷ
thứ ba hiện nay hết sức sinh động,
biến động và chấn động: sinh động
về phương diện các phương tiện
truyền thông xă hội, biến động về
phương diện toàn cầu hóa lănh vực kinh tế, và
chấn động về phương diện ư thức
luân lư nơi con người, ở chỗ, những ǵ con
người từ trước đến nay cho là sai th́
nay lại là đúng, từ trước đến nay cho là
xấu th́ nay lại là lành, từ trước đến
nay cho là hại th́ nay lại là lợi, hay ngược
lại v.v. Thế mà, thực tế cho thấy, chỉ có
Giáo Hội Công Giáo Rôma, trong tất cả các đạo giáo
trên thế giới hiện nay nói chung, kể cả trong
khối Kitô Giáo nói riêng, mới có tiếng nói chính thức,
mạnh mẽ và kiên tŕ trong việc chống lại
những ǵ phạm đến nhân phẩm cao quí của con
người, những ǵ bóp méo chân dung đích thực
của con người, cũng như những ǵ tác hại
đến sự sống bất khả xâm phạm của
con người. Có thể nói mà không sợ sai lầm là Giáo
Hội Công Giáo Rôma chính là lương tâm của thế
giới tân tiến hiện đại.
Điển h́nh nhất cho
cuộc tranh đấu nhân bản chân chính này của Giáo
Hội Công Giáo đă thực sự diễn ra trước
và ngay trong Hội Nghị về Dân Số ở Cairô (xin xem lại trang
215-230), cũng
như đă được phản ánh qua các Cuộc
Họp Quốc Tế về Hôn Nhân, Gia Đ́nh và Sự
Sống (xin
xem lại các trang 248-260, 316-330),
một cuộc tranh đấu đă khiến cho Giáo
Hội Công Giáo thực sự trở thành kẻ thù không đội
trời chung của ư thức hệ duy nhân bản thời đại,
cũng như đă trở thành kẻ thù số một
của lực lượng vô h́nh đang muốn nhuộm đen
thế giới bằng một thứ “văn hóa sự
chết”.
Đúng
thế, tin tức đầu năm 2000 cho hay, ở Liên
Hiệp Quốc, nhóm Công Giáo pḥ phá thai quá khích CFFC (Catholics
for a Free Choice) muốn đẩy Ṭa Thánh Công Giáo Rôma ra
khỏi ghế Quan Sát Viên Thường Trực tại Liên
Hiệp Quốc của Ṭa Thánh, xuống cấp ghế
như của một cơ quan phi chính phủ NGO
(Non-Governmental Organization). Sở dĩ có chuyện này xẩy
ra là v́ nhóm này cùng với lực lượng liên minh, như
nhóm Kế Hoạch Hóa Phụ Huynh (Planned Parenthood), những
thành phần chủ mưu, điển h́nh nhất là ở
Hội Nghị Cairô năm 1994, muốn kế hoạch hóa
thế giới theo chiều hướng thả lỏng
t́nh dục dưới chiêu bài kiểm soát dân số thế
giới, bị Ṭa Thánh kích liệt chống đối
tới cùng.
Tuy nhiên, trong cuộc họp
báo tại Liên Hiệp Quốc vào giữa tháng Ba năm 2000
vừa qua, lương tâm con người đă lên tiếng
qua một số đại biểu của các tôn giáo
như sau:
·
“Vấn đề
này là vấn đề về phá thai. Nó không phải là vấn
đề về tôn giáo. Là những người Evangelical
Protestants, chúng tôi có những điểm khác với Giáo
Hội Công Giáo Rôma về thần học, song chúng tôi hănh
diện bắt tay với họ như những đồng
minh để hoạt động cho lư tưởng cao
cả trong việc pḥ sự sống.
“Đă từ lâu cơ quan
khả kính này, cơ quan Liên Hiệp Quốc này, đă từng
là khấu trường của những phe thiên tả
cực đoan. Họ cho ḿnh là những lực
lượng bao dung, nhưng về vấn đề
quyền lợi của thai nhi, quyền sống căn
bản của con người, họ lại không chấp
nhận được quan điểm khác với quan điểm
của họ, và v́ thế họ vận động để
đá Ṭa Thánh ra khỏi Liên Hiệp Quốc.
“Hiện
nay trong cuộc vận động bầu cử tổng
thống đang có một số người muốn chia
rẽ người Công Giáo với Tin Lành, thế nhưng
tất cả chúng tôi là những người tôn kính Thiên
Chúa sát cánh với nhau trong cuộc vận động
bảo đảm cho tất cả mọi thai nhi có
quyền sống căn bản của con người”
(Tom Minnery,
Focus on the Family, Colorado Springs, Colorado, USA,
Nguyệt San Inside
The Vatican, April 2000, p. 51)
·
“Tôi tham dự
những cuộc họp tại Liên Hiệp Quốc này đă
hai năm rưỡi, và đă dính dáng đến một
số vấn đề liên quan tới gia đ́nh cùng các giá
trị về luân lư hỗ trợ gia đ́nh, tôi đă
nhận thức rằng tất cả mọi tôn giáo trên
thế giới, chứ không phải chỉ có những tôn
giáo có đại biểu ở đây, có nhiều lănh
vực rất thuận hợp nhau. Tất cả đều
đồng ư rằng gia đ́nh là nền tảng và tất
cả mọi qui luật chi phối các giá trị về
luân lư đều hỗ trợ gia đ́nh.
“Theo
chiều hướng đó, nếu dân chúng trên thế
giới cẩn thận để ư đến những ǵ đang
xẩy ra ở đây (tại Liên Hiệp Quốc), th́
họ sẽ hầu như hoàn toàn thấy rằng,
những vị thế của các đại biểu
của Ṭa Thánh tiêu biểu khít khao cho quan điểm
của họ hơn là những vị thế của các đại
biểu thuộc quốc gia họ. V́ lư do này tôi hănh
diện hỗ trợ Ṭa Thánh cho vai tṛ của họ ở
nơi đây tại Hiệp Chủng Quốc, và tôi
khuyến khích các người khác cũng có cùng một ḷng
trí như vậy.
“Ṭa Thánh là tiếng nói không
thể bị hăm dọa bởi các xứ sở Tây
Phương quyền lực và là tiếng nói khiến cho
cuộc vận động này nhắm tới. Các phần
tử của Giáo Hội chúng tôi hănh diện sánh vai làm
việc với các phần tử của Giáo Hội Công Giáo
về các vấn đề luân lư nơi xứ sở này, và
chúng tôi hănh diện đứng về phía của họ
ở nơi đây”.
(Kathryn Balmforth,
the World Policy Center, Mormon Church,
cùng nguồn vừa
dẫn)
·
“Tôi đến đây
hôm nay với tư cách đại diện cho những quan điểm
của bao nhiêu chục ngàn người Do Thái Chính Thống
và cổ truyền cả ở Hiệp Chủng Quốc Hoa
Kỳ lẫn khắp nơi trên thế giới. Ngồi
tại Liên Hiệp Quốc này, một cơ quan tự
xưng là thẩm quyền về các giá trị tổng
hợp, các tiêu chuẩn cũng như lương tâm
thế giới, tôi muốn lên án một nhóm cực đoan
cấp tiến muốn làm cho cơ cấu thế giới
này trở thành một lănh giới phi tôn giáo, phi giá trị.
Họ muốn làm cho Liên Hiệp Quốc trở thành phi Công
Giáo (‘Catholicrein’ theo Đức ngữ).
“Ngày
nay những người cực đoan này t́m cách chối
bỏ và tước quyền cộng đồng Công Giáo
cùng với những ư tưởng của họ. Chính
việc hiện diện có tính cách Công Giáo này thường
phản ảnh những giáo huấn Do Thái truyền
thống về việc tôn trọng sự sống và gia đ́nh.
“Thế
nên, tôi yêu cầu Liên Hiệp Quốc và các phần tử
của cơ quan này hăy loại bỏ đi việc
kiểm chế này, loại bỏ đi t́nh trạng
thiển cận này, và loại bỏ đi việc thù ghét
Vatican cũng như thù ghét các vị thế pḥ sự
sống và gia đ́nh của người Do Thái được
Vatican lên tiếng”.
(Rabbi Yehuda Levin,
Jews for Morality, Brooklyn New York,
cùng nguồn vừa
dẫn)
Từ
biến cố trên đây tại Liên Hiệp Quốc nói
chung và từ những lời phát biểu tỏ thái độ
của các đại biểu tôn giáo nói riêng, chúng ta hiển
nhiên thấy được những điểm trọng
yếu sau đây:
Thứ
nhất, kẻ dữ bao giờ cũng muốn tiêu
diệt người lành để được sống
yên thân khỏi bị cắn rứt bởi những
việc làm chân thiện của kẻ lành:
·
“Mọi kẻ
làm điều gian ác th́ ghét ánh sáng; họ không đến
gần ánh sáng v́ sợ việc làm của họ bị
lộ ra”. (Jn
3:20-21)
Thứ hai, tận đáy ḷng
mọi người, bất kể thuộc tôn giáo nào,
cũng đều có mầm mống chân thiện mỹ là
những ǵ được thể hiện qua luật luân lư
phổ quát, v́ thế, việc đối thoại liên tôn
hay đại kết Kitô Giáo có thể bắt đầu
bằng việc liên minh hoạt động phục vụ
cho quyền lợi con người và thăng tiến xă
hội:
·
“Ai t́m kiếm
chân lư th́ nghe thấy tiếng Tôi”. (Jn 18:37)
Thứ
ba, tiếng của Chúa Kitô, vị chủ chiên tối cao,
thực sự được vang vọng qua Giáo
Hội Công Giáo Rôma, bởi thế, để truyền bá
phúc âm hóa thế giới, Giáo Hội của Người
chỉ việc chiếu tỏa “ánh sáng sự sống” (Jn 8:12) là Chúa Kitô, qua chứng từ
và lời rao giảng của Giáo Hội, bởi v́:
· “Các con là ánh sáng thế
gian” (Mt
5:14).
TGP/LA Lễ Đức Mẹ
Thăm Viếng, 31/5 Năm Thánh 2000
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL