Tác Nhân Truyền Giáo
N |
ếu hiện tượng
Kitô Giáo, cho đến nay, sau gần 2000 năm (ở Ấn Độ), 1500 năm (ở Ả
Rập và Trung Hoa) và
gần 500 năm (ở
Á Đông), hầu như
vẫn chưa hoàn toàn và dễ dàng thấm nhập được
vào Á Châu, một lục địa phát xuất ra các đạo
giáo lớn trên thế giới, chính yếu là do vấn đề
trục trặc nơi đường lối truyền bá
phúc âm hóa, như việc hội nhập văn hóa chẳng
hạn, th́ tại sao lại xẩy ra hiện tượng
nghịch đảo, đó là hiện tượng Kitô Giáo đă
thực sự thấm nhập vào toàn thể Âu Châu, đến
nỗi đă biến đại lục này trở thành một
Châu Kitô Giáo, đă trở thành văn hóa chung của các dân nước
Châu Âu, giờ đây lại là một đại lục đang
bị phá sản Đức Tin khủng khiếp nhất?
Thực tế cho thấy,
nếu hạt giống được đem gieo trong một
mảnh đất c̣n hoang vu chưa có ǵ, dễ mọc lên
hơn nơi mảnh đất đă có gốc rễ của
các cây khác thế nào, th́ lịch sử cũng hiển nhiên
cho thấy hạt giống Đức Tin Kitô Giáo đă
dễ dàng mọc lên ở Âu Châu hơn ở Á Châu như
vậy.
Như thế, nếu
“hạt cải” (Mt
13:31-32) nhỏ bé Đức
Tin Kitô Giáo được gieo văi ở Âu Châu vào thiên niên
kỷ thứ nhất đă thực sự “mọc lên thành
một cây lớn nhất trong các cây” (có thể so sánh về cả dân số, địa
dư và tầm hoạt động xă hội sâu rộng của
dân Kitô Giáo với các đạo giáo khác), th́ việc đại lục
này bị rung gốc (bởiø phong trào Cải Cách từ thế
kỷ 16), bật
gốc (bởi
Cách Mạng Kỹ Nghệ, nhất là Cách Mạng Pháp từ
thế kỷ 18) hay
đang mất gốc (bởi trào lưu “văn hóa tử vong” khủng
khiếp ở vào cuối thế kỷ 20 này) Kitô Giáo của ḿnh hiện
nay không thể cho rằng nguyên nhân là do Đức Tin Kitô
Giáo đă lỗi thời, hay do Đức Tin Kitô Giáo đă
không có sức làm cho con người Kitô hữu đứng
vững trước thời cuộc, trước những
biến đổi của lịch sử.
Nếu “xem quả biết
cây” (Mt
7:20), “cây tốt th́
sinh trái tốt..., một cây xấu không thể sinh trái
tốt” (Mt
7:17-18) thế nào, th́
một cây cổ thụ gần 2000 năm như Kitô Giáo ở
Châu Âu, một cây cổ thụ đă phát triển tầm vóc
hoàn toàn của ḿnh, đến nỗi đă sinh hoa kết
trái dồi dào, cả về phương diện truyền
giáo lẫn phương diện văn minh vật chất
thế giới như thế, mà tự nhiên lại trở
nên khô héo, tàn tạ và đang dần dần chết đi,
(đúng hơn là đang bị thối rữa
corruption/decay), về văn hóa một cách hết sức
lạ lùng và thảm thương, phải kết luận
là không phải do bởi chính bản chất thần linh của
Hạt Giống Đức Tin, một hạt giống một
khi đă được gieo xuống đất th́ lệ
thuộc vào đất và đồng hóa với người
nghe (xem
Mt 13:19,20, 22), mà là do
bởi khí hậu (hoàn
cảnh) bị
nhiễm độc quá nặng (trào lưu tục hóa secularism), đến nỗi đă làm
cho đất đai (ḷng người)
trở nên cằn cỗi (“v́ sự dữ tăng lên mà t́nh
yêu nơi hầu hết ra nguội lạnh”- Mt 24:12 - tinh thần khô đạo
indifferentism), tức
t́nh trạng “muối đă ra nhạt” (Mt 5:13). Đó là lư do chính Âu Châu ngày
nay, hơn bao giờ hết, cần phải được
tái truyền bá phúc âm hóa nữa vậy.
C̣n đối với Á Châu, nơi
phát xuất ra các đạo có tiếng trên thế giới,
như Do Thái Giáo Judaism (2000 BC) ở Do Thái, Ấn Giáo Hinduism
(1500 BC) và Phật Giáo Buddhism (6 BC) ở Ấn Độ,
Bái Hỏa Giáo Zoroastrianism ở Ba Tư (1000 BC), Lăo Giáo hay Đạo
Giáo Taoism (6 BC) và Khổng Giáo hay Nho Giáo Confucianism (6 BC) ở
Trung Hoa, Nhật Giáo Shintoism (6 BC) ở Nhật Bản v.v.,
nếu Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và thượng trí, biết trước
được mảnh đất này đă đầy
những mầm mống và gốc rễ đạo đức
sâu xa như thế, khó có thể gieo hạt giống Đức
Tin Kitô Giáo, như lịch sử thực tế đă cho
thấy, (điển h́nh nhất là trường hợp Do
Thái Giáo là đạo gần Kitô Giáo nhất, cho đến
nay, cũng vẫn không chịu chấp nhận Đấng
Thiên Sai Giêsu Kitô), th́ tại sao Ngài lại không thực
hiện việc gieo Hạt Giống Thần Linh là việc
“Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng
ta” (Jn
1:14) trước khi
tất cả những đạo này xuất hiện, mà
lại chính thức ra tay khởi sự làm công việc vô cùng
quan trọng liên quan đến phần rỗi đời đời
của toàn thể loài người này nói chung và dân Á Châu nói
riêng, chỉ sau khi những đạo giáo nổi tiếng
ấy đă ăn rễ thật sâu vào mảnh đất Á
Châu, vào ḷng dân Châu Á?
Phải chăng đây là
mầu nhiệm tỏ ḿnh ra của Thiên Chúa? Trong bài chia
sẻ giáo lư vào thứ tư hằng tuần của ḿnh,
ngày 11/3/1998, trước khi khai mạc Cuộc Thượng
Hội Giám Mục Á Châu một tháng, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đă trấn an con cái ḿnh về mầu nhiệm tỏ
ḿnh ra của Thiên Chúa ấy như sau:
· “Khi chúng ta đối diện
với một vương quốc của Thiên Chúa trên
thế giới mà lại chậm răi phát triển, chúng ta đặt
lại vấn đề tin tưởng đối với
dự án của Cha nhân hậu, Đấng hướng
dẫn mọi sự bằng một đức khôn ngoan
siêu việt. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hăy khâm phục
‘sự nhẫn nại’ của Chúa Cha, Đấng thích ứng
tác động biến đổi của ḿnh với tính
chất tŕ trệ của bản tính con người đă
bị tội lỗi làm thương tổn. Việc
nhẫn nại này đă được tỏ hiện ở
trong Cựu Ước, qua một lịch sử dài, một
lịch sử sửa soạn cho Chúa Giêsu đến.
Việc nhẫn nại này tiếp tục được tỏ
hiện cả sau Đức Kitô, trong cuộc tiến
triển của Giáo Hội Người (x.2Pt.3:9)”.
(Tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 18/3/1998)
Thật vậy, việc
truyền bá phúc âm hóa trước hết và trên hết
là việc của Thiên Chúa, (hơn là của loài người
chúng ta với tư cách là cộng sự viên, là người
thừa sai), mà Chúa Thánh Thần là tác nhân chính, Đấng
chẳng những sinh động trong Giáo Hội nói chung và
qua các nhà truyền giáo nói riêng, mà c̣n hiện diện nơi
tất cả những ǵ là tốt lành trên thế gian này và
tác động trong cả những người được
truyền bá phúc âm hóa nữa.
· “Việc truyền bá phúc âm
hóa sẽ không bao giờ khả dĩ nếu không có tác động
của Chúa Thánh Thần... Chính ‘nhờ quyền lực của
Thần Linh’ (Lk.4:14), Người đă trở
về Galilêa và bắt đầu rao giảng ở Nazarét,
áp dụng vào trường hợp của Ḿnh lời tiên tri
Isaia: ‘Thần Linh Chúa ở trên tôi’. Và Người đă công
bố: ‘Hôm nay đoạn Sách Thánh này đă nên trọn’ (Lk.4:18, 21; x. Is.
61:1). Với các môn
đệ, thành phần Người sắp sai đi, khi thở
hơi trên họ, Người đă phán: ‘Các con hăy nhận
lấy Thánh Thần’ (Jn.20:22).
Thật vậy, chỉ sau
khi Chúa Thánh Thần hiện xuống vào Ngày Lễ Ngũ
Tuần, các tông đồ mới ra đi cho đến
tận cùng trái đất, để mở màn cho công cuộc
truyền bá phúc âm hóa cao cả của Giáo Hội. Thánh
Phêrô đă cắt nghĩa biến cố này như là
việc hoàn tất lời tiên tri Joel: ‘Ta sẽ đổ
thần linh của Ta xuống’ (Acts
2:17)...
Chính Chúa Thánh Thần, Đấng mà hôm nay, cũng
như ở vào lúc khai sinh Giáo Hội, tác hành nơi mọi
nhà truyền bá phúc âm hóa để mặc cho Ngài chiếm đoạt
và dẫn dắt. Chúa Thánh Thần đặt nơi
miệng lưỡi họ những lời mà họ không
thể tự ḿnh có được, đồng thời,
Chúa Thánh Thần sửa soạn tâm hồn người nghe
biết cởi mở và chấp nhận Tin Mừng cùng với
vương quốc được loan báo.
Những kỹ thuật
truyền bá phúc âm hóa th́ tốt, thế nhưng, ngay cả đến
những kỹ thuật tân tiến nhất cũng không
thể nào thay thế được tác động êm ái của
Thần Linh. Việc trang bị toàn vẹn nhất nơi một
nhà truyền bá phúc âm hóa
cũng sẽ không gây tác dụng ǵ, nếu không có Chúa
Thánh Thần. Nếu không có Chúa Thánh Thần th́ biện chứng
hùng hồn nhất cũng không có tác hiệu ǵ nơi tâm hồn
con người. Không có Ngài th́ những dự án được
phác họa ra dù có cao kiến mấy chăng nữa,
dựa trên căn bản về xă hội cũng như
về tâm lư đi nữa, cũng chẳng mấy chốc
sẽ trở thành vô giá trị.
Chúng ta đang sống trong
Giáo Hội ở vào một thời điểm hồng phúc
Thần Linh. Người ta ở khắp nơi đang
cố gắng nhận biết Ngài hơn, như Sách Thánh cho thấy
về Ngài. Họ lấy làm sung sướng theo ơn tác động
của Ngài. Họ đang qui tụ chung quanh Ngài; họ
muốn để mặc cho Ngài dẫn dắt họ. Bởi
vậy, nếu Thần Linh của Thiên Chúa giữ một
địa vị nổi bật trong cả cuộc
sống của Giáo Hội, th́ Ngài sống động
nhất là nơi sứ mệnh truyền bá phúc âm hóa của
Giáo Hội. Cuộc khai mở long trọng vào buổi
sáng ngày Lễ Ngũ Tuần, theo ơn linh ứng của
Thần Linh, không phải là một biến cố bất ngờ
xẩy ra đâu.
Phải công nhận rằng,
Chúa Thánh Thần là tác nhân chính yếu của việc
truyền bá phúc âm hóa: chính Ngài là Đấng thôi thúc mỗi
một cá nhân trong việc loan báo Phúc Âm, cũng chính Ngài là Đấng
ở trong thâm tâm người nghe để làm cho lời cứu
độ được chấp nhận và hiểu
biết (x. sắc lệnh Ad Gentes, 4). Thế nhưng, cũng
có thể nói rằng, Ngài là mục đích của việc
truyền giáo: Một ḿnh Ngài tạo nên tạo vật mới,
tạo nên nhân loại mới, qua việc truyền bá phúc âm
hóa, bằng một mối hiệp nhất trong đa
diện là những ǵ việc truyền bá phúc âm hóa muốn
đạt được trong cộng đồng Kitô
hữu. Nhờ Chúa Thánh Thần, Phúc Âm thấu nhập
vào ḷng thế giới, v́ chính Ngài là Đấng khiến cho
người ta nhận ra những dấu chỉ thời đại
- những dấu chỉ Thiên Chúa muốn - mà trong gịng lịch
sử việc truyền bá phúc âm hóa muốn tỏ ra cho
thấy và lợi dụng.
... Chúng Tôi kêu gọi
tất cả các nhà truyền bá phúc âm hóa, bất kể là
ai, hăy tin tưởng và sốt sắng cầu nguyện không
ngừng cùng Chúa Thánh Linh, và hăy khôn ngoan để Ngài, như
Đấng tác động tối thượng, hướng
dẫn các dự án của họ, các sáng kiến của họ
và hoạt động truyền bá phúc âm hóa của họ.”
(ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn
Truyền Bá Phúc Âm Evangelii Nuntiandi, đoạn 75)
· “Thần Linh tỏ ḿnh một
cách đặc biệt trong Giáo Hội cũng như nơi
các phần thể của Giáo Hội. Tuy nhiên, việc
hiện diện và hoạt động của Ngài có tính cách
phổ quát, không bị giới hạn bởi không gian và thời
gian (xem
Thông Điệp Dominum et Vivificantem, đoạn 53: loc.
cit., 874f). Công Đồng
Chung Vaticanô II nhắc lại rằng, Thần Linh đang
hoạt động trong ḷng mọi người, qua
những ‘hạt giống Lời Chúa’, được
thể hiện nơi những khởi động của
con người – bao gồm cả những khởi động
về tôn giáo – cũng như nơi những nỗ lực
của con người trong việc đạt tới
sự thật, sự thiện và chính Thiên Chúa (xem Công Đồng
Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động
Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 3,
11, 15; Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong
Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, đoạn 10-11,
22, 26, 38, 41, 92-93).
Thần Linh ban cho loài người
‘ánh sáng và sức mạnh để đáp ứng ơn gọi
cao cả nhất của ḿnh’; nhờ Thần Linh, ‘bằng
đức tin, nhân loại đạt tới viêïc chiêm ngưỡng
và nếm hưởng mầu nhiệm của dự án Thiên
Chúa’; thật vậy, ‘chúng ta buộc phải tin rằng
Thánh Linh ban cho mọi người cơ hội để được
thông phần vào Mầu Nhiệm Vượt Qua một cách
chỉ có Thiên Chúa biết’ (xem
Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Mục Vụ
về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes,
đoạn 10, 15, 22).
Giáo Hội ‘biết rằng nhân loại được
Thần Linh Thiên Chúa liên tục khơi động và v́
thế không bao giờ lại hoàn toàn dửng dưng với
các vấn đề tôn giáo’, và ‘con người bao giờ
... cũng muốn biết được cái ư nghĩa của
đời sống, hoạt động và cái chết của
ḿnh’ (Ibid.
đoạn 41). Như
thế, Thần Linh ở ngay chính nguồn gốc của
việc con người vấn nạn về cuộc
sống và tôn giáo của họ, một việc vấn
nạn có những lúc nổi lên không phải chỉ bởi
các trường hợp liên quan đến chúng gây ra mà c̣n bởi
chính cấu trúc nơi con người của họ
(xem
Thông Điệp Dominum et Vivificantem, đoạn 54: loc.
cit., 875f).
Việc Thần Linh hiện
diện và hoạt động có tác dụng chẳng
những nơi cá nhân mà c̣n nơi cả xă hội lẫn lịch
sử, nơi cả các dân tộc, các văn hóa và tôn giáo
nữa. Thật
thế, Thần Linh là nguồn gốc của các lư tưởng,
cũng như của công việc cao quí là những ǵ mang
lại lợi ích cho loài người trong cuộc hành tŕnh của
họ qua gịng lịch sử: ‘Bằng việc quan pḥng
khôn ngoan, Thần Linh Thiên Chúa hướng dẫn diễn
tiến của các thời đại và canh tân bộ
mặt trái đất’
(xem Công Đồng
Chung Vaticanô II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội
trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, đoạn 26). Chúa Kitô Phục Sinh
‘hiện nay đang hoạt động nơi cơi ḷng con người
bằng sức mạnh của Thần Linh Người,
chẳng những bằng việc khơi lên ước vọng
hướng đến một thế giới mai sau, mà c̣n
làm sinh động, thanh tẩy và vững chắc những
khát vọng cao quí thúc đẩy gia đ́nh nhân loại làm
cho đời sống của ḿnh thành một đời
sống nhân bản hơn và hướng toàn thể trái đất
về đích điểm này’ (ibid. đoạn 38, xem cả đoạn
93). Cũng chính
Thần Linh là Đấng gieo ‘các hạt giống Lời Chúa’
hiện diện nơi các tập tục và văn hóa khác
nhau, sửa soạn cho chúng được toàn vẹn trong
Chúa Kitô (xem
Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lư về
Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 17; Sắc Lệnh
về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad
Gentes, đoạn 3, 15).
(ĐTC Gioan Phaolô
II, Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc
Redemptoris Missio, 28)
· Như thế, Thần Linh, Đấng
“thổi đâu th́ thổi” (x.Jn 3:8), Đấng ‘đă hiện
diện trong thế gian trước khi Chúa Kitô được
vinh hiển’ (xem Công Đồng
Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động
Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 4), và là Đấng ‘tràn đầy
thế gian, ... nắm giữ tất cả mọi sự
lại với nhau (và) biết những ǵ phải nói’ (Wis 1:7), đă mở rộng cái
nh́n của chúng ta để suy nghĩ về hoạt động
của Ngài ở mọi thời và mọi nơi (xem Thông Điệp
Dominum et Vivificantem, đoạn 53: loc. cit., 874). Tôi thường nhớ đến
sự việc này, một sự việc đă hướng
dẫn Tôi trong rất nhiều cuộc gặp gỡ với
các thành phần dân chúng khác nhau. Mối liên hệ của
Giáo Hội với các tôn giáo khác phải tỏ ra một ḷng
tôn trọng lưỡng diện: ‘Tôn trọng con người,
nơi việc họ cần đến những giải đáp
cho các vấn đề sâu xa nhất của cuộc đời
họ, và tôn trọng tác động của Thần Linh nơi
con người’ (Diễn Từ ngỏ với các Đại
Biểu của các Tôn Giáo Ngoài Kitô Giáo, tại Madras, ngày
5/2/1986: AAS 78 – 1986 – 767; xem Sứ Điệp gửi
Dân Chúng Á Châu, Manila, ngày 21/2/1981, 2-4: AAS 73 – 1981 – 392f; Diễn
Từ ngỏ với các Đại Biểu của Các Tôn
Giáo Khác, Tokyo, ngày 24/2/1981, 3-4: Insegnamenti IV/I – 1981 – 507f). Bỏ ra ngoài những
cắt nghĩa sai lạc, th́ việc gặp gỡ liên tôn ở
Assisi là để chứng thực cho thấy niềm xác
tín của Tôi về ‘mọi lời cầu nguyện chân
thực đều được Chúa Thánh Thần tác động,
Ngài là Đấng hiện diện nhiệm mầu nơi
hết mọi cơi ḷng con người’ (Diễn Từ ngỏ với
Các Vị Hồng Y và ngày 22/12/1986, đoạn 11: AAS 79 – 1987
– 1089).
Cũng cùng một Vị
Thần Linh này là Đấng đă hoạt động trong
việc Nhập Thể và trong đời sống, trong cuộc
tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, và là Đấng
hoạt động trong Giáo Hội. Thế nên, Ngài không
phải là một vị thay thế cho Chúa Kitô, cũng không
phải là vị điền vào chỗ trống, đôi khi được
cho là xẩy ra, giữa Chúa Kitô và Ngôi Lời. Bất cứ
những ǵ Thần Linh làm phát sinh nơi cơi ḷng con người
cũng như nơi lịch sử của các dân tộc, nơi
các nền văn hóa cũng như nơi các đạo giáo,
đều giúp vào việc sửa soạn cho con người
đón nhận Phúc Âm
(xem Công Đồng
Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội Lumen
Gentium, đoạn 16),
và chỉ có thể được hiểu liên quan đến
Chúa Kitô, Lời nhập thể bởi quyền năng của
Thần Linh, ‘để như một con người
toàn vẹn, Người cứu lấy tất cả loài người
và qui tụ tất cả mọi sự lại với nhau’
(xem Công Đồng
Chung Vaticanô II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội
trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, đoạn 45;
xem Thông Điệp Dominum et Vivificantem, đoạn 54:
loc. cit., 876).
Ngoài ra, hoạt động phổ
quát của Thần Linh cũng không được tách khỏi
hoạt động riêng biệt của Ngài trong Thân Thể
của Chúa Kitô là Giáo Hội. Thật vậy, bao giờ cũng
là Thần Linh hoạt động, cả khi Ngài ban sự
sống cho Giáo Hội và thúc đẩy Giáo Hội loan báo Chúa
Kitô, cũng như khi Ngài gieo mầm và làm nẩy nở các
tặng ân của Ngài nơi tất cả mọi người
cũng như mọi dân tộc, khi hướng dẫn Giáo
Hội khám phá ra những tặng ân ấy, nuôi dưỡng
những tặng ân ấy và tiếp nhận bằng
việc đối thoại. Mọi h́nh thức hiện
diện của Thần Linh phải được đón
nhận với ḷng tôn kính và tri ân, song Giáo Hội có trách
nhiệm trong việc nhận thức về việc
hiện diện này, một trách nhiệm được Chúa
Kitô ban Thần Linh của Người cho để dẫn
dắt Giáo Hội vào tất cả sự thật (x. Jn 16:13).
(ĐTC Gioan Phaolô
II, Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc
Redemptoris Missio, 29)
· Thời đại của chúng
ta đây, theo đà nhân loại đang tiến triển và
không ngừng t́m kiếm, cần phải có một cuộc
phục hưng hoạt động truyền giáo của
Giáo Hội. Những chân trời và cơ hội truyền
giáo đang rộng mở hơn bao giờ hết, Kitô
hữu chúng ta được kêu gọi can đảm làm
việc tông đồ bằng ḷng tin tưởng nơi
Thần Linh. Ngài là tác nhân chính của việc truyền giáo!
Lịch sử nhân loại đă
cho thấy có nhiều khúc quanh chính đă kích thích việc
dấn thân truyền giáo, và Giáo Hội, được
Thần Linh dẫn dắt, đă luôn luôn hết ḿnh đáp ứng
tại những khúc quanh này một cách khôn ngoan. Không
thiếu ǵ những thành quả đă gặt hái được.
Cách đây không lâu, chúng ta đă mừng kỷ niệm một
ngàn năm của công cuộc truyền bá phúc âm hóa của
dân Rus’ và dân Slav, nay chúng ta lại đang sửa soạn
cử hành để mừng kỷ niệm năm trăm
năm của công cuộc truyền bá phúc âm hóa Mỹ Châu. Cũng
thế, chúng ta vừa tưởng niệm một
trăm năm của công việc truyền bá đầu
tiên tại một số quốc gia ở Á Châu, Phi
Châu và Đại Dương Châu. Ngày nay Giáo Hội
phải đương đầu với các thách đố
khác và tiến tới những giới tuyến mới,
cả về việc truyền giáo ban đầu ad gentes cũng
như về việc tân truyền bá phúc âm hóa cho
những dân nước đă nghe loan truyền về Chúa
Kitô. Ngày nay, tất cả mọi Kitô hữu, cả Giáo Hội
riêng cũng như Giáo Hội hoàn vũ, đều được
kêu gọi có cùng một ḷng dũng cảm đă phấn khích
các nhà truyền giáo trong quá khứ, và có cùng một tấm ḷng
sẵn sàng lắng nghe tiếng nói của Thần Linh”.
(ĐTC Gioan Phaolô
II, Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc
Redemptoris Missio, 30)
· “Theo chiều hướng của
Công Đồng Chung Vaticanô II, các Nghị Phụ Thượng
Hội Giám Mục Á Châu đă chú ư tới tác động
phong phú và đa dạng của Chúa Thánh Thần, Đấng
tiếp tục gieo văi các hạt giống chân lư nơi
tất cả mọi dân tộc, mọi tôn giáo, văn hóa và
triết lư của họ (xem các văn kiện Propositio,
đoạn 11; Ad Gentes, đoạn 4 và 15; Lumen Gentium,
đoạn 17; Gaudium et Spes, đoạn 11, 22 và 38; Redemptoris
Missio, đoạn 28)”.
(ĐTC Gioan Phaolô
II, Tôâng Huấn Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia in Asia,
15)
Chính v́ Thánh Thần là tác nhân
và là động lực truyền giáo mà Ngài đă trực
tiếp can thiệp, ở chỗ “đă không
cho phép” và “ngăn cản” (Acts 16:6-7) thực hiện việc
truyền bá phúc âm hóa tại Tiểu Á ngay từ đầu...,
cho “đến thời điểm viên trọn” (Gal 4:4-5) theo nhiệm ư của Thiên Chúa.
Biết đâu “thời điểm viên trọn” cho việc
truyền bá phúc âm hóa Âu Châu là thiên niên kỷ thứ
nhất, Phi Châu là thiên niên kỷ thứ hai th́ Á Châu là thiên
niên kỷ thứ ba th́ sao?