3-                  Phạm vi của mầu nhiệm này được nới rộng ra:

Thánh Kư Gioan viết:

“Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14);

rồi Thánh Kư thêm: “tất cả những ai tiếp nhận Người,

những ai tin vào danh Người, th́ Người ban cho họ

quyền trở nên con cái Thiên Chúa” (1:12).

Phạm vi của mầu nhiệm ấy được nới rộng ra:

việc Con Thiên Chúa hạ sinh là một tặng ân cao trọng,

một ân sủng cao cả nhất đối với phúc lộc của con người,

đến nỗi tâm trí con người chưa từng nghĩ đến.

Khi tưởng niệm Chúa Kitô hạ sinh vào Ngày thánh này,

chúng ta sống, cùng với biến cố này,

“mầu nhiệm con người được làm nghĩa tử Thiên Chúa”,

nhờ việc làm của Chúa Kitô, Đấng đến trong thế gian.

V́ lư do này, những ai t́m kiếm chân lư đă coi

Đêm Giáng Sinh và Ngày Giáng Sinh là “linh thiêng”.

Kitô hữu chúng ta tuyên nhận Đêm Ngày này là “thánh”,

v́ chúng ta nhận thấy nơi Đêm Ngày ấy

một dấu ấn không thể lầm lẫn của Đấng là Thánh,

đầy ḷng xót thương và nhân hậu.

 

4-                  Tuy nhiên, năm nay c̣n có một lư do khác,

làm cho ngày ân sủng này càng thánh hơn nữa:

đó là v́ ngày này mở màn cho Cuộc Đại Mừng Kỷ Niệm.

Đêm hôm qua, trước Thánh Lễ,

Tôi đă mở Cửa Thánh của Đền Thờ Vatican.

Đó là một tác động tượng trưng,

một tác động khai mạc Năm Mừng Kỷ Niệm,

một cử chỉ đặc biệt sống động đề cao

một cái ǵ đó vốn có ở nơi mầu nhiệm Giáng Sinh:

Đó là Chúa Giêsu,

được Mẹ Maria hạ sinh nghèo hèn ở Bêlem,

Người, Con Hằng Hữu Chúa Cha ban cho chúng ta,

là Cửa cho chúng ta và cho hết mọi người!

Cửa cứu độ của chúng ta,

Cửa sự sống,

Cửa b́nh an!

Đó là sứ điệp Giáng Sinh

và là lời công bố cho Cuộc Đại Mừng Kỷ Niệm.

 

5-                  Ôi Chúa Kitô, chúng con hướng mắt về Chúa,

Cửa cứu độ của chúng con,

khi chúng con cảm tạ Chúa về tất cả mọi sự lành

trong các năm qua, các thế kỷ qua, các thiên niên qua.

Tuy nhiên, chúng con cũng phải thú nhận rằng

đôi khi nhân loại đă đi t́m kiếm Chân Lư ở đâu đâu,

đă sáng chế ra những niềm tin sai lầm,

và đă chạy theo những ư hệ giả dối.

Có những lúc người ta

đă không chịu tôn trọng và yêu thương

anh chị em khác chủng tộc hay tôn giáo của ḿnh;

họ đă chối bỏ những quyền căn bản

thuộc về cá nhân hay dân nước.

Thế nhưng, Chúa vẫn tiếp tục hiến cho tất cả mọi người Chân Lư rạng ngời cứu độ.

Chúng con nh́n lên Chúa, Ôi Chúa Kitô là Cửa Sự Sống,

và chúng con cảm tạ Chúa về những sự lạ lùng

Chúa đă làm cho mọi thế hệ nên phong phú.

Có nhũng lúc thế giới này

không tôn trọng cũng chẳng yêu mến sự sống.

Thế nhưng Chúa không bao giờ thôi yêu mến sự sống;

thật thế, trong mầu nhiệm Giáng Sinh,

Chúa đến để soi sáng tâm trí con người ta,

để các nhà lập luật và các vị lănh đạo chính trị,

những con người nam nữ thiện chí, có thể quyết tâm

trong việc đón nhận sự sống con người

như một quà tặng cao quí.

Chúa đến để ban cho chúng con Phúc Âm Sự Sống.

Chúng con hướng mắt chúng con lên Chúa,

Ôi Chúa Kitô, Cửa B́nh An,

khi c̣n là những người lữ hành trong thời gian,

chúng con đến viếng thăm

tất cả những nơi sầu thương và chinh chiến,

những nơi an nghỉ của những nạn nhân

của những cuộc xung đột hung bạo và tàn sát bất nhân.

Là Vua B́nh An, Chúa mời gọi chúng con

hăy loại trừ đi việc vô lư sử dụng vũ khí,

cũng như loại trừ đường lối bạo lực và hận thù

là những ǵ làm mờ mịt cá nhân, dân tộc và đại lục.

 

6-         “Một người con đă được ban cho chúng ta”.

Cha là Đấng đă ban Con Cha cho chúng con.

Hôm nay đây Cha lại ban Người cho chúng con,

vào lúc b́nh minh của một tân thiên niên kỷ.

Người là Cửa cho chúng con.

Qua Người, chúng con tiến vào một chiều hướng mới,

rồi chúng con hoàn toàn đạt tới đích điểm cứu độ

mà Cha đă sửa soạn cho tất cả mọi người.

Lạy Cha, chính v́ lư do này mà

Cha đă ban Con Cha cho chúng con,

để nhân loại biết được những ǵ Cha muốn ban

cho chúng con trong cuộc sống trường sinh,

để con người đủ sức hoàn thành

dự án yêu thương mầu nhiệm của Cha.

Chúa Kitô, Con của Người Mẹ Trinh Nguyên,

ánh sáng và hy vọng của những ai t́m kiếm Chúa

ngay cả khi họ không biết Chúa,

cũng như của những ai biết Chúa

nên càng t́m kiếm Chúa hơn nữa.

Chúa Kitô, Chúa là Cửa!

Qua Chúa, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần,

chúng con muốn tiến vào ngàn năm thứ ba.

Ôi Chúa Kitô, Chúa vẫn là một,

hôm qua, hôm nay và cho đến muôn đời (x. Heb 13:8).

 

(L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 29/12/1999)

 

Chúa Kitô, Chúa là Cửa! Qua Chúa, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng con muốn tiến vào ngàn năm thứ ba” đây là ǵ, nếu không phải “nghĩa là tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa; là kiên cường đức tin nơi Người để sống sự sống mới Người đă ban cho chúng ta. Đó là một quyết định dám tự do chọn lựa và dám can đảm bỏ đi cái ǵ đó, với ư thức điều ḿnh sẽ chiếm được là sự sống thần linh” (ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Sắc Mầu Nhiệm Nhập Thể, đoạn 8). Thái độ  tuyên xưng và tin tưởng Đức Giêsu này cũng chính là thái độ mở cửa ḷng ḿnh ra đón nhận Chúa Kitô:

 

·        Đừng sợ. Hăy mở rộng các cửa cho Chúa Kitô. Các biên giới Chính Quyền, các hệ thống kinh tế và chính trị, các lănh vực rộng lớn về văn hóa, văn minh và phát triển hăy mở ra cho quyền năng cứu độ của Người. Chúa Kitô biết ‘những ǵ nơi con người ta’. Chỉ có một ḿnh Người biết nó thôi’ (Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Lời Đăng Quang ngày 22/10/1978). Và hôm nay đây, ở vào chính lúc cuối cùng của thế kỷ cũng như của thiên niên này, Tôi thấy ḿnh có nhiệm vụ cần phải nói thêm là: Chớ ǵ không một ai, không một cơ cấu nào, không một ư hệ nào làm cản trở bất cứ một người nào muốn mở ḷng ḿnh ra cho Chúa Kitô”.

 

(ĐTC Gioan Phaolô II, Đáp Từ Vị Tân Lănh Sự Cuba ở Ṭa Thánh ngày 2/12/1999,

L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 15/12/1999)

 

Về phần ḿnh, để có thể hiên ngang và cương quyết tiến vào ngàn năm thứ ba với cả một quá khứ đầy thách đố hết sức thảm khốc và tang thương, Giáo Hội cần phải “băng qua ngưỡng cửa hy vọng” (nhan đề cuốn sách của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II xuất bản năm 1994), và ngay giây phút đầu tiên mở màn cho Năm Thánh 2000, cũng là giây phút mở màn cho cả một tân thiên niên kỷ thứ ba (theo Phụng Niên) của thế giới Kitô giáo, Vị Mục Tử Tối Cao, Vị Đại Diện cho Chúa Kitô trên trần gian để chăn dắt cả chiên mẹ lẫn chiên con của Người (xem Jn 21:15-17), đă chính thức mở cửa Đền Thờ Thánh Phêrô trước khi cử hành Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh, 24/12/1999. Trong bài giảng khai mạc cho Năm Thánh 2000, để mở màn cho thiên niên kỷ thứ ba, cũng là để Long Trọng Mừng Kỷ Niệm “Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14) 2000 năm, Đức Thánh Cha đă hướng ḷng con cái ḿnh về “Đấng Cứu Tinh Nhân Trần” (tên thông điệp đầu tiên của Ngài, ban hành ngày 3/4/1979) như sau:

 

1-     Hodie natus est nobis Salvotor mundi” - Hôm nay Đấng Cứu Thế đă giáng sinh cho chúng ta. (Câu Đáp Ca Thánh Vịnh).

 

Qua 20 thế kỷ, lời công bố vui mừng hoan hỉ này đă bộc phát ra từ con tim của Giáo Hội. Vào đêm thánh này, Thiên Thần lập lại lời ấy cho chúng ta nghe, những con người nam nữ đang sống ở thời điểm cuối cùng của một thiên nên kỷ: ‘Đừng sợ; này đây Ta mang đến cho các người một tin rất vui mừng..., đó là, hôm nay đây Đấng Cứu Thế đă giáng sinh cho các người trong thành Đavít” (Lk 2:10-11). Chúng ta đă sửa soạn để đón nhận những lời an ủi này trong mùa Vọng: qua những lời ấy, ơn cứu chuộc ‘hôm nay đây’ của chúng ta đây đă trở thành hiện thực.

 

Trong giây phút này, chữ ‘hôm nay đây’ đă vọng lên một thứ tiếng vang đặc biệt: nó không phải chỉ là một tiếng vang cho việc tưởng niệm cuộc giáng sinh của Đấng Cứu Chuộc; nó chính là tiếng vang để long trọng mở màn cho Cuộc Đại Mừng Kỷ Niệm. Chúng ta hướng tinh thần của chúng ta đến giây phút có một trong hai trong lịch sử này, giây phút Thiên Chúa làm người, mặc lấy xác thịt của chúng ta.

 

Phải, Con Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha, là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, được nhiệm sinh bởi Chúa Cha từ đời đời, đă nhập thể bởi Trinh Nữ Maria và đă mặc lấy bản tính nhân loại của chúng ta. Người đă được sinh vào thời gian. Thiên Chúa đă đi vào lịch sử. Cái ‘hôm nay’ hằng hữu khôn sánh của Thiên Chúa đă trở nên hiện thực nơi cuộc sống thường ngày của nhân loại.

 

2-     Hodie natus est nobis Salvotor mundi” - Hôm nay Đấng Cứu Thế đă giáng sinh cho chúng ta. (Câu Đáp Ca Thánh Vịnh).

 

Chúng ta phục ḿnh tôn thờ trước nhan Con Thiên Chúa. Chúng ta hợp tinh thần của chúng ta với con mắt bỡ ngỡ lạ lùng của Mẹ Maria và Thánh Giuse. Khi chúng ta tôn thờ Chúa Kitô trong hang lừa, chúng ta tuyên xưng đức tin của ḿnh, một đức tin đầy bàng hoàng kinh ngạc của các mục đồng lúc bấy giờ; chúng ta cảm thấy cùng một ngỡ ngàng như họ và một niềm vui như họ.

 

Chúng ta bị ngất ngây không thể nén được trước biến cố sống động này. Chúng ta là những chứng nhân của giây phút yêu thương liên kết vĩnh hằng với lịch sử đó: cái ‘hôm nay đây’ là giây phút bắt đầu thời điểm vui mừng và hy vọng, v́ ‘một người con đă được ban tặng cho chúng ta; và người con này mang trên vai quyền uy thống trị” (Is 9:6), như chúng ta đọc thấy trong sách của Isaia.

 

Phục dưới chân của Lời Nhập Thể, chúng ta hăy dâng lên Người niềm vui mừng và lo sợ của chúng ta, nước mắt và hy vọng của chúng ta. Chỉ ở nơi một ḿnh Chúa Kitô là con người mới, mới có ánh sáng thật chiếu soi mầu nhiệm hiêïn hữu của con người mà thôi.

 

Cùng với Thánh Phaolô, chúng ta hăy chiêm ngưỡng sự kiện xẩy ra ở Bê-lem là sự kiện ‘ân sủng của Thiên Chúa đă tỏ hiện cho phần rỗi của tất cả mọi người’ (Ti 2:11). Đó là lư do tại sao vào Đêm Giáng Sinh, các bài hát hân hoan vang lên khắp cùng trái đất, bằng mọi thứ ngôn ngữ khác nhau.

           

3-     Đêm nay, chúng ta chứng kiến thấy việc nên trọn của lời Phúc Âm: ‘Thiên Chúa đă yêu thương thế gian đếùn nỗi đă ban Người Con duy nhất của ḿnh, để ai tin vào Người... th́ được sự sống trường sinh’ (Jn 3:16).

 

Người Con Duy Nhất của ḿnh!

 

Ôi Chúa Kitô, Chúa là Con Duy Nhất của Thiên Chúa hằng sống, đă đến giữa chúng con trong hang Bê-lem! Sau 2000 năm, chúng con đă sống lại mầu nhiệm này, một biến cố vô tiền khoáng hậu. Trong số tất cả mọi con cái loài người, mọi con trẻ được sinh vào thế gian qua các thế kỷ, chỉ duy một ḿnh Chúa là Con Thiên Chúa: cuộc giáng sinh của Chúa đă rơ ràng biến đổi tiến tŕnh các biến cố của nhân loại.

 

Đó là một sự thật Giáo Hội trong đêm nay muốn truyền lại cho thiên niên kỷ thứ ba. Và chớ ǵ tất cả những ai vào đời sau chúng con đều chấp nhận sự thật này, một sự thật hoàn toàn làm thay đổi lịch sử. Kể từ đêm Bê-lem, nhân loại biết được rằng Thiên Chúa đă làm Người: Ngài đă trở thành Con Người để con người được thông phần với bản tính thần linh của Ngài.

 

4-      Chúa là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống! Trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba, Giáo Hội chào mừng Chúa, Người Con của Thiên Chúa, Đấng đă đến thế gian để chiến thắng sự chết. Chúa đă đến để chiếu soi cuộc sống nhân loại bằng Phúc Âm của Chúa. Giáo Hội chào mừng Chúa, và với Chúa, Giáo Hội muốn tiến vào ngàn năm thứ ba. Chúa là hy vọng của chúng con. Chỉ có Chúa mới có những lời sự sống mà thôi.

 

Xin Chúa là Đấng đă đến thế gian nơi thôn Bê-lem hăy ở với chúng con!

 

Xin Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống hăy hướng dẫn chúng con!

 

Xin Chúa là Đấng từ Cha mà đến hăy dẫn chúng con trong Chúa Thánh Thần để đến với Ngài, theo con đường chỉ một ḿnh Chúa biết và cũng là con đường Chúa đă tỏ cho chúng con biết, hầu chúng con được sự sống trường sinh và được sự sống viên măn hơn.

 

Ôi Chúa Kitô, Chúa là Con Thiên Chúa hằng sống, xin hăy là Cửa cho chúng con vào!

 

Xin Chúa hăy thực sự là Cửa, được biểu hiệu bằng cửa mà đêm nay chúng con đă long trọng mở ra!

 

Xin Chúa hăy là Cửa cho chúng con, dẫn chúng con vào mầu nhiệm của Chúa Cha. Chớ ǵ đừng có ai ở ngoài ṿng tay xót thương và an b́nh của Ngài!

‘Hodie natus est nobis Salvotor mundi’ - Hôm nay Đấng Cứu Thế đă giáng sinh cho chúng ta: chính Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất của chúng con! Đó là sứ điệp Giáng Sinh của năm 1999: giây phút ‘hôm nay đây’ của Đêm Thánh này khai mạc cho Cuộc Đại Mừng Kỷ Niệm.

 

Xin Mẹ Maria, rạng đông của những thời điểm mới, hăy ở bên chúng con khi chúng con tin tưởng cất bước đầu tiên tiến vào Năm Mừng Kỷ Niệm! Amen!

 

 (Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 29/12/1999)

 

Tóm lại, như thực tế cho thấy, càng văn minh tối tân tiến về vật chất th́ chung thế giới lại càng bị khủng hoảng trầm trọng về văn hóa nhân bản chân chính, do đó những người chưa biết Chúa, nhất là những người đang theo các đạo giáo khác, lại càng khó trở lại đạo, và riêng thế giới Kitô giáo Âu Mỹ lại càng bị phá sản kinh hoàng về đức tin tông truyền của ḿnh, là do chính trách nhiệm cá nhân cũng như do thời thế xă hội. Thế nhưng, chính v́ Giáo Hội Chúa Kitô “ở trong thế gian” (x. Jn 17:11), như “muối đất” (Mt 5:13) và như “ánh sáng thế gian” (Mt 5:14), do đó, Giáo Hội cũng phải chịu trách nhiệm một phần nào về thảm trạng “văn hóa tử vong” hiện nay.

 

Tuy nhiên, cũng chính v́ t́nh trạng con người đang “ngồi trong tối tăm và bóng tối sự chết” (Lk 1:79), t́nh trạng “tối tăm đang bao phủ địa cầu và mây mù đang vây phủ các dân” (Is 60:2), mà con người lại cần đến và mới cần đến ánh sáng cũng như t́m kiếm chân lư hơn bao giờ hết, đến nỗi, tôn giáo nào có thể giải cứu được con người trong lúc này, trong lúc khoa học và kỹ thuật tối tân không thể, trong lúc chủ trương luân lư chủ quan và tương đối không thể, trong lúc ngành lập pháp của con người thả cương cho tự do ngông cuồng của con người không thể, tôn giáo ấy mới thật sự “là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12; Mt 5:14), ánh sáng sự sống (Jn 8:12).

 

Đúng thế, sau khi chết xác thịt của một sinh vật bị thối rữa thế nào, th́ thảm trạng tâm linh của con người văn minh ngày nay cũng thế. Họ chẳng những đă chết mà c̣n đang bị thối rữa nữa (corruption/decay). Thực tế đă tỏ tường cho thấy con người thực sự đă chết ở chỗ họ sống như không có Thiên Chúa, và con người cũng thực sự đă băng hoại ở chỗ họ dám làm cả những ǵ hủy thể có tính cách phản nhân bản và bất nhân thất đức một cách trắng trợn.

 

Về phương diện đạo giáo, con người chẳng những đă chết lạnh qua đời sống khô đạo, mà c̣n đang băng hoại v́ hiện tượng tràn ngập giáo phái “phản kitô” (xin xem lại trang 258-260) hay “ngụy kitô” (Mt 24:24) lạc loài nữa. Về phương diện hôn nhân gia đ́nh, con người chẳng những đă chết cứng ở khoản luật cho phép ly dị, cho phép phân ly những ǵ Thiên Chúa đă kết buộc (xem Mt 19:6), mà c̣n băng hoại v́ khoản luật cho phép hôn nhân đồng tính nữa. Về phương diện sự sống, con người chẳng những đă chết toi ở khoản luật cho phép phá thai, mà c̣n băng hoại v́ khoản luật cho phép tạo sinh ngoại nhiên nữa v.v.

 

Bởi con người chẳng những đă chết v́ không giữ luật tự nhiên mà c̣n đang băng hoại v́ lấy dữ làm lành và lành làm dữ theo ư riêng của ḿnh như thế mà con người càng ngày càng văn minh đến tột đỉnh ngày nay đă chẳng khác ǵ như đang bị chết thối “đă bốn ngày rồi” (Jn 11:39), trong ngôi mộ “văn hóa tử vong”!

 

Nếu một người đă chết, nhất là đă chết thối trong mồ, không thể nào tự ḿnh sống lại được, th́ chỉ có Đấng tự xưng ḿnh “Thày là sự sống lại và là sự sống” (Jn 11:25) mới có thể làm cho bất cứ một tử thi vô hồn thối tha nào “bước ra khỏi mồ” (Jn 11:44) mà thôi. Tuy nhiên, dù tự ḿnh có thể làm được điều này, song v́ muốn tỏ vinh quang của ḿnh ra, tức muốn qua việc Người làm, con người sẽ tin vào Người hơn: “Ai tin Thày dù có chết cũng được sống lại, và ai đang sống mà tin Thày sẽ không bao giờ chết” (Jn 11:26). Nghĩa là Thiên Chúa muốn tỏ ḿnh ra cho cả kẻ sống (công chính) và kẻ chết (tội nhân).

 

Thế nhưng, một khi đă chết rồi, tội nhân làm sao có thể như Matta (xem Jn 11:27) là người “đang sống” để có thể bảy tỏ ḷng ḿnh tin vào Đấng “là sự sống lại và là sự sống” để “được sống lại”? Theo tự nhiên th́ quả thật là như vậy, tuy nhiên, đối với Thiên Chúa, cái chết về tâm linh con người, trước khi tới giây phút cuối cùng, giây phút “tận thế” của mỗi người cũng như của cả loài người, th́ chỉ là một giấc ngủ mà thôi: “Lazarô yêu dấu của chúng ta đang ngủ, nên Thày đến đó để đánh thức anh ta dậy” (Jn 11:11), bằng lời toàn năng của Người: “Hỡi Lazarô, hăy ra khỏi mồ!” (Jn 11:43). Quả nhiên, “người chết đă bước ra khỏi mồ” (Jn 11:44), v́ con người chết, chết thối ấy vẫn c̣n nghe thấy tiếng Chúa, nghe thấy “những lời sự sống trường sinh” (Jn 6:68), đúng như lời Chúa Giêsu quả quyết với những người Do Thái chẳng những không chịu tin Người mà c̣n quyết tâm tiêu diệt Người nữa (xem Jn 5:18):

 

·        Tôi nói thật cho quí vị biết, đă đến thời giờ, thật sự là đă đến rồi, lúc mà kẻ chết sẽ nghe thấy tiếng của Con Thiên Chúa, và những ai nghe tiếng Người th́ sẽ được sống” (Jn 5:25).

 

Như thế, lương tâm của con người không phải chỉ là cái loa phát tiếng nói chân thiện của Thiên Chúa, mà c̣n là chính bộ phận phản tỉnh đă được Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan đặt sẵn nơi con người, để con người, một khi thấy ḿnh lầm lạc, thấy ḿnh cùng đường bí lối, như trường hợp người con hoang đang trong dụ ngôn ngươêi cha nhân ái, có thể cũng cảm thấy hối hận và dứt khoát lên đường trở về với Ngài (xem Lk 15:17-18), “như chết được sống lại” (Lk 15:32).

 

Chính v́ lương tâm con người là một bộ máy phản tỉnh được Thiên Chúa đặt để nơi con người như thế mà thực tế đă cho thấy, chính lúc con người đang bị băng hoại hết sức trầm trọng này th́ lại có những hiện tượng phản chứng khác cho thấy họ đang cố gắng hồi sinh. Chẳng hạn, ở Âu châu, trong lúc con người đang quay cuồng với những biến động làm cho họ mệt mỏi và choáng váng đến buồn nôn và chán chường, th́ người ta lại thấy có một phong trào đang hồ hởi t́m kiếm an b́nh tĩnh lặng, dù là nơi những đường hướng suy niệm theo kiểu Đông phương, như Thiền hay Yoga. Một điển h́nh khác, trong lúc Giáo Hội tại Âu Mỹ đang bị nạn thiếu hụt giáo sĩ và khủng hoảng ơn gọi tu tŕ th́ phong trào giáo dân và vai tṛ giáo dân lại tự nhiên nổi lên khắp nơi trên thế giới. Về phương diện trần thế, chính trong lúc thế giới đang bị nghẹt thở bởi phong trào “pro-choice” th́ con người vẫn  được hô hấp bầu khí của phong trào “pro-life”, tuy không được hoàn toàn thoải mái v.v.

 

Trước những “dấu chỉ thời đại” (Mt 16:3) hiêïn lên cho thấy một cơ hội hết sức thuận lợi như thế, trong đó có cả tiến tŕnh toàn cầu hóa (globalization) về kinh tế, lẫn hiện tượng thu hẹp thế giới loài người lại thành ngôi làng hoàn vũ (global village) bởi các phương tiêïn truyền thông xă hội, ư thức được ḿnh là tiếng nói của Thiên Chúa, qua việc rao giảng “Phúc Âm Sự Sống” (nhan đề của bức thông điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25/3/1995), là một yếu tố khẩn thiết nhất, một phương thế hữu nghiệm nhất và là đường lối duy nhất để cứu văn loài người, từ thập niên 1960, Giáo Hội đă chính thức công khai tuyên nhận ḿnh là “ánh sáng muôn dân” “trong thế giới tân tiến” (2 văn kiện chính của CĐ Vaticanô II).

 

·        Tin Mừng là sứ điệp về t́nh yêu vô cùng của Chúa Cha được tỏ hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đă đến thế gian ‘để qui tụ nên một con cái Thiên Chúa phân tán khắp nơi’ (Jn 11:52), và hiệp nhất họ lại trong một gia đ́nh nhân loại duy nhất là nơi Thiên Chúa lập cư (x Rev 21:3). Đó là lư do tại sao Đức Giáo Hoàng Phaolô VI khi nói về Giáo Hội đă nhắc lại là: ‘không có ai xa lạ đối với tấm ḷng của Giáo Hội, không có ai không được thừa tác vụ của Giáo Hội quan tâm. Giáo Hội không có ai là kẻ thù, trừ những ai muốn như vậy. Danh xưng của Giáo Hội là Công Giáo không phải là một tên gọi rỗng không. Giáo Hội cũng không nhận lănh một cách vô ích sứ vụ bảo tŕ trên thế giới này mối hiệp nhất, t́nh yêu thương và ḥa b́nh’ (Thông điệp Ecclesiam Suam, n. 94).

 

Công Đồng Chung Vaticanô II đă làm vọng lại những lời ấy: ‘Dân Thiên Sai, mặc dù không thực sự bao gồm tất cả mọi người, và có những lúc c̣n là một đàn chiên bé nhỏ, song lại là một mầm mống bảo đảm nhất cho niềm hiệp nhất, hy vọng và cứu độ’ (Hiến Chế Tín Lư Ánh Sáng Muôn Dân, đoạn 9)”

 

(Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Sứ Điệp cho Ngày Di Dân Thế Giới,

Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 22/12/1999)

 

Thế nên, để tỏ ra ḿnh thực sự làGaudium et Spes”, Niềm Vui và Hy Vọngcho “thế giới tân tiến” (tên của Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội của Công Đồng Chung Vaticanô II), Giáo Hội càng cần phải tiếp tục và liên tục dấn thân thực hiêïn việc đại kết (Kitô giáo) và việc tái truyền bá phúc âm hóa (cho văn hóa Âu Mỹ) cũng như tân truyền bá phúc âm hóa (cho liên tôn Á Châu).

 

·          V́ ở trong Chúa Kitô, tự bản chất, Giáo Hội là một bí tích, tức là một dấu chỉ và là một phương tiện, hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại lại với nhau”. (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, đoạn 1).

 

Chớ ǵ Năm Thánh 2000, Thời Điểm Hồng Ân của Thiên Chúa, Mùa Xuân Gieo Tin Mừng Cứu Độ của Giáo Hội, mở ra cho nhân loại mộttrời mới và đất mới” (Rev 21:1), vớimột tân đô Gia-Liêm” (Rev 21:2):

 

·        Đây là nơi Thiên Chúa ở giữa loài người. Ngài sẽ ở với họ, họ sẽ là dân của Ngài và Ngài sẽ là Thiên Chúa của họ, Đấng luôn ở với họ. Ngài sẽ lau sạch nước mắt của họ, và sẽ không c̣n chết chóc hay khóc than, không c̣n kêu la hay đau đớn, v́ thế giới trước kia đă qua đi rồi”. (Rev 21:3-4)

 

·        Thành không cần vầng nhật nguyệt, v́ vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng cho thành và Chiên Con là đèn soi của thành. Các dân nước sẽ bước đi trong ánh sáng của thành, và các vua chúa sẽ mang đến cho thành những kho tàng báu vật. Ban ngày cửa thành sẽ không khi nào đóng lại, và đêm tối sẽ không bao giờ c̣n nữa”. (Rev 21:23-25, 22:5).

 

Cùng Mẹ “Ngợi Khen Chúa”

tại Tổng Giáo Phận Los Angeles: khởi viết 23/10/1999,

Ngày bế mạc Thượng Hội Giám Mục Âu Châu lần hai,

và kết bút ngày 2/1/2000, Lễ Chúa Hiển Linh.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Biệt chú:

                Trong khi cuốn sách này đang chờ được xuất bản, một số tài liệu cập nhật hóa rất hay và một số vấn đề thật khẩn thiết cho nội dung của cuốn sách đă được thêm vào những chỗ  thích hợp, như ở các trang 327-330 cũng như ở phần phụ trương sau đây.